Thứ Hai, 21 tháng 3, 2011

Trước sau

Lê Văn Xương

I. CHIẾN TRANH KINH TẾ GIỮA HOA KỲ VÀ TRUNG CỘNG LÀ KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI:

Trước sau như một, tôi vẫn nói với quý vị về mấy điểm sau:

- Hoa Kỳ và phương tây có đủ chính nghĩa để lật đổ các chế độ Taliban và Saddam Hussein.

- Về căn bản thì tình hình Trung Ðông đã giải quyết xong về mặt chiến lược.

- Hoa Kỳ chẳng có sai lầm gì quá nghiêm trọng ở Irak đâu.

Nhiều người rất ngạc nhiên về diễn biến hiện nay khi so chiếu với các điều tôi vừa nêu lên vì rằng:

- Chiến tranh vẫn liên tục xẩy ra ở cả hai vùng đất ấy và dường như đang lan rộng sang các vùng khác như Pakistan, Iran, syrie, Somalio, Algeria chẳng hạn.

- Dân thường vẫn chết hàng ngày do chiến tranh giáo phái và các nhóm Al Queda hiện đang được tập trung lại và củng cố sức mạnh.

- Irak, Afghanistan đang trở nên bất ổn hơn, liên quân đã bị tử vong đến trên 4000, dư luận Mỹ cũng như Quốc Hội Mỹ tỏ ra mất hết kiên nhẫn và cuộc nội chiến ở Irak giữa hai phái Sunny và Shia là khó tránh khỏi.

- An ninh nội địa của nước Mỹ và Aâu Châu cũng không mấy được cải thiện sau biến cố 9-11 và dường như âm mưu khủng bố lớn có thể bằng cả bom bẩn cũng đang rình rập ở đâu đó đối với Hoa Kỳ và Aâu Châu.

Nhiều người nghĩ rằng, Hoa Kỳ lật đổ Saddam Hussein chỉ vì vấn đề dầu hỏa mà thôi. Suy nghĩ như vậy là rất phiến diện về mặt trí tuệ.

Vì rằng:

- Nếu chỉ vì dầu hỏa thì duy trì nguyên trạng trước lúc ông Tổng Thống Bill Clinton xuống chức có phải là hay hơn không vì khi đó giá dầu thô vẫn duy trì ở mức độ dưới 30 US dollars, thâm thủng mậu dịch của Mỹ với thế giới không quá lớn và ngân sách liên bang đang trên đà thặng dư, hình ảnh của nước Mỹ đối với thế giới đang được cải thiện. Nền kinh tế Mỹ phát triển mau chóng do sự bộc phát của kinh tế dot.com.

Những người thực am am tường tình hình thì: kinh tế dot.com là đòn phép rất Mercantilism chỉ Hoa Kỳ thực hiện được mà thôi, ngân sách thặng dư thì Dollars lên giá thế là hàng Mỹ trở nên mắc hơn và sức cạnh tranh yếu đi, xuất khẩu bị trì trệ và đương nhiên kinh tế sẽ đi vào suy thoái.

Chính phủ Bill Clinton thực ra là chuẩn bị rốt ráo để chính phủ Bush thi hành các bước kế tiếp của cả một kế hoạch sâu rộng hơn nhiều so với những gì mà giới truyền thông chính thống Mỹ nói với dân Mỹ và thế giới mà thôi.

Tất cả các thắc mắc của mỗi người trong chúng ta cần giải thích tóm gọn như thế này: (điều này tôi đã giải thích tỏ tường trong một số bài viết có đăng trên web site chỗ anh Toàn từ khá lâu rồi)

“Lãnh đạo là phải nhìn thấu đáo hướng đi và các bất trắc tiềm ẩn ở phía trước, nhất quyết không thể xu phụ theo đám đông (trên quy mô toàn cầu) thường không hiểu biết tình hình, phải dẫn dắt đám đông đi vào hướng đã được chọn lựa dựa trên sự hiểu biết sâu rộng về lịch sử và các toan tính của các phía liên quan, chấp nhận sự mất mát ngắn hạn để bảo đảm sự thành công trong đường dài, thành công mà ta nói ở đây là cho toàn nhân loại và nền văn minh phương tây là một bộ phận quan trọng nhất có khả năng dẫn đưa nhân loại đi vào nền văn minh mới”.

Như thế, khi người Hồi Giáo không thể tự mình giải quyết các bế tắc của mình thì thế giới (phương Tây) phải giúp họ giải quyết bế tắc của họ để người theo đạo Hồi sớm hòa mình với thế giới.

Như thế khi người Hán cứ khư khư ôm mộng bành trướng thì phải giúp người Hán thoát khỏi cái gông cùm đầy thiên kiến ấy để người dân nước hán biết thế nào là tự do là dân chủ.

Tự Do-Dân Chủ là nền tảng vững chắc để bảo đảm cho một quốc gia và cả nhân loại này biết sống có trách nhiệm với mình, với quốc gia, với thế giới và với thiên nhiên (thiên nhiên khi quay lại hủy diệt anh thì hậu quả là khôn lường) Cho nên khi một thiểu số cầm quyền thường là có đặc quyền đặc lợi trí tuệ rất thấp kém chống lại thì loài người tiến bộ phải hủy diệt cái nhóm thiểu số cầm quyền thối nát ấy đi.

Ðó là tiến trình tất yếu và sự mất mát của một số người dân vô tội là một cái giá mà loài người phải chấp nhận thôi.

Và đúng như tiến trình lịch sử khách quan theo đó:

- Sự hiện diện của lực lượng bên ngoài như là chất xúc tác tạo điều kiện để các thế lực bên trong tự lột xác một cách mau chóng hơn so với tiến trình thông thường (lịch sử đã chứng minh là mâu thuẫn nội tại không đủ lực để tạo ra sự lột xác đúng nghĩa được thường là dẫn đến vá víu và bất ổn). Ðiều này đúng với xã hội Hồi giáo và sẽ đúng với cả xã hội nước Hán tới đây thôi.

- Nếu Hoa Kỳ và Phương Tây không nắm lấy quyền điều tiết về dầu hỏa và đặt ra một trật tự về năng lượng thì: nếu theo cách thức rất Monroe‘s (tức là cứ để mặc cho các thế lực muốn chi phối theo kiểu cũ) thì thế giới này cũng bị hủy diệt trễ lắm là trước năm 2020 vì tham vọng bành trướng của Bắc Kinh cấu kết với các nhóm cực đoan Hồi giáo. Cuộc chiến ấy là nguyên tử và vũ khí vi trùng trên quy mô lớn và toàn diện chứ đâu phải chơi.

Cho nên nếu có bất ổn như ta đang thấy thì đó là bất ổn đã được dự kiến và là tất yếu trong quá trình chuyển hóa, bất ổn ấy là kiểm soát được và bên dưới các bất ổn ấy các chồi mới có sức mạnh hơn đang nẩy mầm.

Hoa Kỳ và Phương Tây có đủ chính nghĩa để hành động là thế.

Thế giới nên giải quyết mau tình hình trong thế giới Hồi giáo; có thể là trong năm 2008 này hàng loạt biến cố sẽ xẩy ra làm thay đổi tận gốc rễ tình hình Trung Ðông. Thế giới còn có nhiều điều phải làm mà một trong các vấn đề nổi cộm là vấn đề nước Hán.

ÐỐI VỚI NƯỚC HÁN: Khi chủ nghĩa thực dân thịnh thời thì nước Hán đâu có bị đô hộ toàn diện ngoài một vài hải cảng bị phương tây áp lực phải chấp nhận quy chế tô giới như (Hương cảng, Macau…). Nước Nhật thời Minh trị được phương Tây ủng hộ hết mình để hiện đại hóa theo đúng thuyết “balance of power” theo đó: Minh trị của Nhật nắm vai trò cản chân Nga trên biển Thái Bình Dương và nước Hán với nhà Thanh cản chân Nga ở trên đất liền, tam giác Bắc kinh - Tokyo - Maskova cân bằng là thế.

Như vậy xã hội Hán không bị bẻ gãy về mặt nhận thức, nước Hán vẫn lao vào con đường cũ từ thời Tần Thủy Hoàng để lại là thế mà chả hề biết rằng thế giới đã đổi thay tận gốc rễ rồi.

Qua hai thế chiến chiến tranh lạnh hiệp 1 và sau chiến tranh lạnh (thời Tổng Thống Bill Clinton) chủ nghĩa bành trướng đại Hán được khuyến dụ và tiếp sức bởi phương tây để đẩy nước Hán đến chỗ trở thành kẻ thù của cả nhân loại. Nước Hán vì trí tuệ hẹp hòi vẫn lún sâu vào con đường bành trướng.

Cho nên khi tình hình Trung Ðông đi vào khúc quanh mới thì vấn đề nước Hán trở thành chủ đề chính đối với an ninh toàn cầu.

Nước Hán cố mua thời gian, nhưng thời gian đâu còn để nước Hán mua nữa. Chiến tranh ở Trung Ðông và ở Á Châu khác nhau ở điểm mấu chốt sau đây: Ở Á Châu (nước Hán) chiến tranh kinh tế là đòn chính trong khi ở Trung Ðông chiến tranh vũ trang là nỗ lực chính trong khi ở cả hai nơi ấy: “sự tan rã bắt nguồn từ bên trong”.

Ðối với nước Hán thì cuộc chiến mậu dịch là chắc chắn sẽ sảy ra và thực tế đang sảy ra:

Ta hãy tóm lược ít điều theo bài viết rất mới của Samatha Burker đăng trên tập san Whiskey and Gunpower với tiêu đề là: “ The Chinese-American currency wars of 2007-2010”.

Ðồng yuan của Tầu giữ giá thấp #40% so với giá thực. Uûy Ban tài Chánh Thượng Viện Mỹ ( Senate Finance Committee) chấp thuận với tỷ lệ 20/1, Ủy Ban Ngân hàng Thượng Viện (Banking committee) chấp thuận tỷ lệ 17/4, đạo luật được đặt tên là “Fair currency act 2007), đề ra biện pháp trừng phạt quốc gia nào cố tình giữ giá tiền tệ thấp hơn giá thực.

Trong khi hai Ủy Ban Thượng Viện âm thầm thông qua dự thảo luật thì Uûy Ban Tư Pháp hỏi tội ông Gouzales Bộ Trưởng Tư Pháp để đánh lạc hướng dư luận.

TRỪNG PHẠT CÁCH NÀO: Vai trò chính này được giao cho Bộ Ngân Khố với ông Bộ Trưởng Hank Paulson. Bộ trưởng Hank Paulson yêu cầu Tầu điều chỉnh lại giá cả tiền tệ, nói với Hồ Cẩm Ðào và phó chủ tịch Wu Yi là ông cùng với Tổng Thống Bush đều không đứng sau vụ Quốc Hội đòi trừng phạt Tầu. Nhưng Tầu không lắng nghe và vẫn tiếp tục giữ nguyên lập trường.

Ðồng thời lập Liên Minh Tiền Tệ (China currency coalition) nhằm Lobby quyền lợi Tầu tại Mỹ.

Trở lại 7/2005 AFL/CIO gửi một tài liêu cho Bộ Ngân Khố gồm nhiều trăm trang với đầy đủ tài liệu chứng minh nhưng Bộ Ngân Khố bác ngay và không đọc, kháng thư này của AFL/CIO cũng bị quốc hội bác liền.

Theo như ông Richard Trunka là một thành viên đồng thời là tổng thủ quỹ của AFL/CIO, tài liệu này sau đó được gửi lại cho Bộ Trưởng Ngân Khố, Phó Bộ Trưởng Ngân Khố, Thứ Trưởng Ngân Khố, đại diện thương mại Mỹ, thuyết trình báo chí và điều trần trước quốc hội về vấn đề tiền tệ của Tầu.

Trở lại tháng 4/2005, hai thượng nghị sỹ Schuwer và Graham soạn đề luật trừng phạt hãng Tầu với thuế xuất 27.5% nhưng cả hai vị này đều không hy vọng đề luật được thông qua.

BÀI HỌC SMOOT- HAWLEY: nước Tầu 1-1-2008

Duyệt lại sơ lược lịch sử 1930: Thượng nghị sỹ Reed Smoot và dân biểu Willis Chatman Hawley đưa ra dự thảo luật thuế quan cao nhất trong lịch sử Mỹ đối với đường và bông vải, lúc đó 1000 nhà kinh tế yêu cầu Tổng Thống Hoover chống lại (cũng giống như ngày nay 1028 nhà kinh tế ký kháng thư phản đối đạo luật “china currency act”).

Ðạo luật “Smoot-Hawley” đánh thuế tối đa 53% với 900 sản phẩm và 70 nông sản các loại nên chỉ trong vòng 2 năm, 25 quốc gia phản công lại bằng cách tăng thuế quan làm cho ngoại thương Mỹ xuất khẩu từ 5.24 tỷ Dollars năm 1929 xuống còn 1.6 tỷ Dollars vào năm 1932, thương mại toàn cầu giảm 66%.

Như thế đạo luật Smoot-Hawley năm 1930 cũng là dự luật “Fair currency act 2007.

CÂU HỎI: PHƯƠNG PHÁP ÐỂ TÍNH TOÁN VỀ LUẬT QUAN HỆ TÀI CHÁNH SÒNG PHẲNG (Fair currency act)

a/ Quyền nào để Hoa Kỳ tính giá trị thuần tịnh của một loại tiền tệ nào đó.

b/ Cơ cấu nào cho phép Hoa Kỳ thực hiện quyền ấy.

c/ Sự hiểu biết nào bảo đảm là các quyền ấy thực thi.

Sau đây là cách thức được phát triển theo đạo luật “Fair currency act 2007” với danh số S 1607:

- Thặng dư mậu dịch so với thâm thủng mậu dịch của Mỹ.

- Thặng dư mậu dịch của nước ấy với các nước khác.

- Ðầu tư trực tiếp ra hải ngoại.

- Dự trữ ngoại tệ.

Ðối với Bộ Ngân Khố: để thực hiện chính sách này, theo quan điểm của Bộ Trưởng cần thực hiện trong khuôn khổ các điều lệ của IMF theo đó, điều IV trong thỏa hiệp tổng quát của IMF đã bị phía bên kia vi phạm.

Trở lại với Cheklist (bản kiểm chứng) thì:

- Tầu thặng dư mậu dịch với Mỹ 233 tỷ Dollars trong năm 2006.

- Tầu thặng dư mậu dịch với Á Châu- Nhật Bản nhưng thiếu hụt mậu dịch với các quốc gia khác (dầu hỏa) làm cho thặng dư mậu dịch thực là 177 tỷ Dollars năm 2006.

- Tầu tập trung vào việc đầu tư ra hải ngoại.

- Dự trữ ngoại tệ 1.3 trillion dollars.

Ðó là phần tóm lược bài viết của tác giả Samatha Burker.

Kết hợp với hàng loạt biến cố khác nhau mà mọi người đã biết ( hàng hóa Tầu bị nhiễm chất độc nên bị thu hồi ở nhiều nơi trên thế giới). Tầu tiếp tục đẩy mạnh kế hoạch xâm lăng các quốc gia khác, đặc biệt là Việt Nam và Miến Ðiện bằng vào việc xử dụng 1, 3 trillion dự trữ ngoại tệ để làm phương tiện xâm lăng theo phương thức mềm (soft power).

Chiến tranh kinh tế thực tế đang nổ ra giữa Tầu và Mỹ.

II. VẤN ÐỀ VIỆT NAM:

ÐỐI VỚI VIỆT NAM: Trớ trêu trong lịch sử Việt Nam cận đại nằm ở chỗ sau đây:

“Sau các mất mát 1975, người Việt tự do vẫn không có lấy một cơ hội cỏn con nhằm thống nhất lại, thay vào đó, ngày càng phân hóa” , nhiều người nghĩ rằng: nước Việt hải ngoại đâu?. Sao lại để tình trạng tồi tệ này sảy ra?

Xin thưa: Nước Việt hải ngoại vẫn là nước Việt hải ngoại đấy chứ, nhưng nước Việt hải ngoại cũng phải thực hiện các kế sách phù hợp với kế sách toàn cầu. Theo đó, người Việt hải ngoại chưa thể thống nhất vì điều này sẽ làm cho Hà Nội và Bắc Kinh âu lo , cần thời gian để tình trạng xã hội nước Hán chín mùi cho sự tan rã đồng thời làm cho con gấu Bắc cực (Nga) cảm thấy yên tâm. Sự thao túng của tình báo Hà Nội và Bắc Kinh vào cộng đồng người Việt hải ngoại đặc biệt tại Mỹ là điều đã thấy rất rõ từ trước.

Trở lại vài bài học của quá khứ:

1. Trong cuộc chiến Việt Nam lần thứ II (1954-1975) bên cạnh cuộc chiến võ trang là hàng loạt cú lừa tình báo đầy ngoạn mục mà ngay cả những giới chức tình báo chuyên nghiệp ở Hà Nội vẫn không hay biết.

Ta hãy đan cử vài thí dụ: cú lừa Tết Mậu Thân 1968 là điển hình cho cuộc chiến đầy phức tạp ấy. Hà Nội muốn hủy diệt Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sau khi quân đội miền Bắc đã tràn ngập nơi núi rừng Tây Nguyên và khắp vùng nông thôn miền Nam. Hoa Kỳ cũng muốn quân đội Việt Nam Cộng Hòa yếu đi để Hà Nội có tiếng nói duy nhất trên bàn hội nghị để mở đầu cho việc quân đội Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam nhằm thực hiện kế thành không đối với tham vọng bành trướng của Kremli khi mà Bắc Kinh đã ra mặt chống Liên Xô (hai phía đụng độ quân sự nặng nề bên bờ sông Oussuri đầu năm 1969).

Từ “coup” lừa này đã dẫn Liên Xô đến chỗ bị sa lầy ở khắp nơi trên thế giới để rồi đi đến sự tan rã vào năm 1990.

Một “coup” lừa khác cũng hay ho chẳng kém đó là việc 31.000 cán bộ nằm vùng của Hà Nội được cài vào cơ quan chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và trong các thành thị, các cơ quan tình báo biết rõ nhưng chẳng được phép hành động, làm ngơ cứ y như là chẳng biết gì cả. Mặc sức để cho các cán bộ Cộng Sản núp dưới nhiều danh nghĩa khác nhau như liên lạc thứ ba, phong trào hòa hợp hòa giải, báo chí hoạt động gần như công khai để làm phân hóa chế độ Việt Nam Cộng Hòa một cách có hệ thống, hàng loạt các sự sắp xếp rất có hệ thống chỉ là nhằm chuẩn bị cho biến cố 30-4-75 vốn được coi là lừa ngoạn mục nhất trong lịch sử chính trị cận đại.

Như thế trong đoàn người di tản lúc đầu ấy đâu có thiếu vắng những cán bộ tình báo Hà Nội trà trộn vào (con số không nhỏ đâu) nhóm này kết hợp với các cán bộ tình báo hải ngoại đã gài sẵn ở Aâu Mỹ sẽ tăng cường mạng lưới tình báo của Hà Nội nay (sau 30-4-75) được phát triển rộng rãi tại Mỹ một cách khá công khai.

Tình hình này gần như là tạo điều kiện để tình báo Hà Nội thao túng số người Việt đến định cư tại các quốc gia khác nhất là khi phong trào vượt biên được mở rộng trong suốt 10 năm trời kể từ sau 30-4-75, như thế lợi thế vẫn nằm ở phía tình báo hải ngoại của Hà Nội mà nhiệm vụ chủ yếu là khống chế người Việt hải ngoại chứ không phải là bảo vệ quyền lợi của đất nước nhân dân.

Khi Bộ Ngân Khố Mỹ cho phép chuyển ngân về Việt Nam cho thân nhân thì số tiền ấy thực chất rất ít được chuyển về trong nước mà để ở hải ngoại để làm vốn kinh doanh tại chỗ và gia tăng ảnh hưởng đến cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại bây giờ thông qua rất nhiều cơ sở làm ăn khác nhau, từ các cơ sở ấy dùng tiền kiếm được để thành lập các cơ quan truyền thông, mua chuộc các tổ chức bằng cách đóng góp tiền bạc là lái các tổ chức ấy phục vụ cho đường lối của Ðảng CSVN một cách khéo léo thông qua các chiêu bài như sau:

- Tiếp tục nói về các điểm không tốt của Việt Nam Cộng Hòa để giới trẻ nghĩ rằng Việt Nam Cộng Hòa là tồi tệ.

- Tuyệt đối không khen chế độ Cộng sản nhưng luôn đưa ra các nhận định một chiều nhằm tiếp tục gia tăng sự khác biệt trong nhận thức của người Việt hải ngoại với người Việt trong nước.

- Tiếm danh và thao túng các tổ chức do người Việt hải ngoại thành lập nếu cần mua đứt các tổ chức ấy để các tổ chức ấy chỉ còn là bình phong bên ngoài mà thôi. Về nội dung bên trong thì thực tế do tình báo Cộng sản hải ngoại điều phối toàn diện.

Nghị quyết 36 mới đây của Hà Nội xác định các thành quả này chứ chẳng phải vô tình như nhiều người Việt hải ngoại suy nghĩ đâu.

VỚI TẦU: Tầu muốn thao túng Việt Nam trong nước thì chắc chắn Tầu phải coi nỗ lực thao túng người Việt hải nhoại là một đường lối quan trọng. Sự cấu kết giữa tình báo Việt cộng và tình báo Tầu là tất yếu không thể chối cãi.

Như vậy: Mặc dù Cộng Ðồng Việt Nam hải ngoại có rất nhiều tổ chức, nhưng thực ra thì nhiều tổ chức ấy đã bị tình báo Tầu thông qua tình báo Hà Nội “buy out” rồi. Ông Nguyễn Minh Triết kêu gọi trở về với dân tộc còn bao hàm ý nghĩa nữa. Ðó là một thực tế đau lòng mà hôm nay đây tôi lên tiếng cảnh tỉnh mọi người.


Thực ra thì 30-4-75 chưa chấm dứt một cuộc chiến, nó chỉ đánh dấu một giai đoạn khác của cuộc chiến đầy phức tạp và cam go mà thôi. Tình hình khác, cách đánh phải khác. Nước Hán mới thực sự là tối hậu địch nhân, kẻ theo Hán có tội nặng hơn bất cứ tội nào khác đối với dân tộc. Biến cố lớn của thế giới có lẽ chẳng còn xa, ta cần các chuẩn bị mang tính thực chất chứ không phải là hình thức như 32 năm qua được.

Ba mươi hai năm qua, đa số thầm lặng có thể tĩnh tọa ngồi chờ, bây giờ là lúc đa số thầm lặng phải nhất tề đứng lên để chuẩn bị làm một cái gì đó cho dân tộc đất nước.

Các vị Tướng có uy tín trước 75 đâu?. Các vị Tướng có uy tín và không để lại một tỳ vết gì trong hơn 32 năm qua đâu?. Các trí thức đích thực hết lòng với dân tộc đâu?

Xin quý vị hãy xuất hiện để đóng góp vào đại nghiệp của dân tộc. Cánh cửa lớn của lịch sử hàng ngàn năm mới mở ra một lần, phúc cho ai được đi vào cánh cửa lớn của lịch sử trong thời điểm trọng đại này của dân tộc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét