Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2011

Những liên hệ song phương Việt - Mỹ

Christopher R. Hill, Thứ Trưởng Ngọai Giao Đặc Trách Đông Á và Thái Bình Dương Sự Vụ
Ủy Ban Ngọai Giao Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ
Ngày 12, Tháng Ba 2008

Mở Đầu:
Trân trọng cám ơn bà TNS Boxer chủ tịch, TNS Murkowki và quý vị trong tiểu ban đã cho phép tôi được điều trần về Mối Liên Hệ Song Phương Mỹ- Việt. Tôi mới vừa từ Việt Nam về và rất  vui mừng được dịp chia xẻ cùng quý vị những cảm nghĩ của tôi về Việt Nam
Mối liên hệ Mỹ-Việt đã phát triển một cách  sâu rộng trong một số lãnh vực kể từ khi chúng ta tái lập bang giao với Việt Nam năm 1995. Chuyến công du của TT. Bush tới Hà Nội năm 2006 để tham dự Hội Nghị Hợp Tác Kinh Tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và chuyến viếng thăm Hoa Thịnh Đốn của chủ tịch Nguyễn Minh Triết vào Tháng 6, 2007 đã phản ảnh những bước tiến bộ trong mối quan hệ của chúng ta. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, đặc biệt là lãnh vực nhân quyền. Nói chung, chúng ta đã thực hiện được những tiến bộ rộng lớn trong những vấn đề hai bên cùng có chung quyền lợi cũng như khả năng của chúng ta can dự một cách thẳng thắn vào những vấn đề mà hai bên có những khác biệt. Tiếp tục can dự và cùng chung giải quyết với Việt Nam hiển nhiên là mối quan tâm của chúng ta.

Những Liên Hệ Song Phương: Từ Đối Đầu Tới Hợp Tác
            Bước khởi đầu tốt nhất để duyệt lại quá trình mở ra mối bang giao giữa hai quốc gia là nhìn vào sự chuyển đổi mạnh mẽ của quốc gia Việt Nam. Khi chúng ta bắt đầu tái can dự (re-engaging) vào Việt Nam những năm 1990, sứ sở này mới vừa ra khỏi những năm còn cuồng nhiệt với chủ nghĩa Mác. Những năm tháng đó đã tàn phá nền kinh tế vẫn còn lảo đảo vì chiến tranh, xô đẩy hằng trăm ngàn người vào các trại cải tạo hoặc trốn chạy sang Hoa Kỳ hay vào các quốc gia khác. Chính sách ngọai giao của Việt Nam lúc bấy giờ là liên kết chặt chẽ với Liên-Sô, và cũng vừa chấm dứt một thập niên chiếm đóng Cambodia.
            Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã đảo ngược con đường đi vào ngõ cụt này vào cuối thập niên 1980 bằng chính sách “Đổi Mới” để thúc đẩy kinh tế. Họ từ bỏ con đường họach định trung ương mà thiên về những nỗ lực thúc đẩy khu vực tư nhân. Các nhà lãnh đạo Việt Nam thấy rằng họ phải gia nhập vào kinh tế thế giới để lôi cuốn thương mại quốc tế, đầu tư và kỹ thuật. Kết quả là, cuộc đổi thay này đã tạo ra một cuộc cách mạng về kinh tế nhanh chóng nhất trong lịch sử cận đại. Hoa Kỳ đã khích lệ hướng đi mới này và đã tích cực giúp đỡ những đổi thay tại Việt Nam trong hơn một thập niên, qua những trợ giúp về phát triển và chính sách thương mại.
            Nếu Việt Nam có thể tiến hành một cách hữu hiệu cải tổ kinh tế thị trường hơn nữa, họ có tiềm năng theo kịp những Con Rồng Á Châu. Tổng Sản Lượng Quốc Gia (GDP) tăng 8.5 % trong năm 2007 đó là mức gia tăng cao nhất trong thập niên. Giới trung lưu đô thị cũng đã gia tăng và thị trường bán lẻ cũng mở rộng. Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) đã mô tả đây là chiến dịch chống nghèo đói (xóa đói giảm nghèo) thành công nhất. Việt Nam đã giảm con số nghèo đói từ ¾ dân số xuống còn 14% năm 2007. Để thành công trong tham vọng trở thành một quốc gia kỹ nghệ vào năm 2020, Việt Nam còn phải làm nhiều hơn nữa để phát triển hạ tầng cơ sở vật chất lẫn nhân sự, bao gồm cả việc giải quyết những khiếm khuyết nghiêm trọng trong hệ thống giáo dục.
            Việt Nam đang mau chóng hội nhập vào thế giới. Quốc gia này đang gia tăng ảnh hưởng trong Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn Đàn Hợp Tác Kinh Tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), tham gia vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) Tháng 1, 2007. Tháng Giêng năm nay, Việt Nam gia nhập Hội Đồng Bảo An LHQ nhiệm kỳ hai năm. Chúng ta làm việc chặt chẽ với Việt Nam trong Hội Đồng này và củng cố  sự hợp tác với Việt Nam trong diễn đàn quốc tế quan trọng này trong hai năm tới.
            Xây dựng trên những hứa hẹn từ Thỏa Hiệp Thương Mại Song Phương (BTA) 2001 (US-Vietnam Bilateral Trade Agreement) chúng ta đã và đang tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế qua những gia tăng lớn lao về  thương mại và đầu tư. Vào cuối năm  2006, Việt Nam đã được ban cấp Quy Chế Thương Mại Thường Trực với Hoa Kỳ (Permanent Normal Trade Relations). Rồi từ đó Việt Nam gia nhập WTO vào Tháng Giêng 2007 với lợi ích cho hai quốc gia. Vào Tháng Sáu 2007, Hoa Kỳ và Việt Nam đã chung kết Thỏa Hiệp Chỉ Đạo Về Thương Mại và Đầu Tư (TIFA- Trade and Investment Framework Agreement) để giúp cho việc thi hành Quy Chế Thương Mại Bình Thường cũng như những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO và cũng để xác nhận những cơ hội mới để thúc đẩy những quan hệ về thương mại và đầu tư. Sự tiếp cận của Việt Nam với WTO đã giúp thúc đẩy thương mại hai chiều là 12.5 tỉ trong năm 2007- tức gia tăng 29% so với năm 2006. Trong khi cán cân thương mại lệch về phía Việt Nam, nhưng xuất cảng của Hoa Kỳ sang Việt Nam gia tăng 73% trong năm 2007, nhanh gấp ba lần số xuất cảng của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Như chủ tịch Triết xác nhận trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vào Tháng 6, Việt Nam hoan nghênh số đầu từ hơn nữa từ Hoa Kỳ. Bộ Trưởng Thương Mại Gutirrez đã hướng dẫn giám đốc điều hành của 22 công ty lớn của Hoa Kỳ tới Việt Nam vào Tháng 11, 2007 để thương thảo và gia tăng xuất cảng.
            Sự trợ giúp của Hoa Kỳ cho Việt Nam để cải tổ kinh tế tập trung vào sự quản trị tốt và trong sáng hầu làm dễ dàng cho mối liên hệ thương mại và đầu tư của chúng ta. Qua những dự án viện trợ như Trợ Giúp Thúc Đẩy Thương Mại - Support for Trade Acceleration (STAR), chúng ta giúp ý kiến và cố vấn cho hằng lọat các luật lệ mới liên quan đến việc thi hành Thỏa Hiệp Thương Mại Song Phương (BTA) và những cam kết khi vào WTO. Những nỗ lực này giúp chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam bằng cách xúc tiến một mức độ cho lãnh vực tư nhân, bao gồm cả cả các công ty trong nước và ngọai quốc. Cùng xu hướng đó, viện trợ Mỹ dành cho chương trình Việt Nam Tự Lập Cạnh Tranh (Vietnam Competetiveness Initiative) thiết lập một chỉ số xếp hạng mỗi tỉnh trong việc dễ dàng làm thương mại, dựa trên nhãn quan của chính các công ty Việt Nam. Nhà cầm quyền Việt Nam đang xử dụng phương tiện này để khích lệ sự trong sáng hơn và các biện pháp chống tham nhũng tại cấp địa phương.
            Kết quả là các công ty tư nhân Việt Nam đã có ảnh hưởng mới trong việc họach định chính sách kinh tế của nhà cầm quyền. Một vài nhà lãnh đạo Việt Nam đã bày tỏ quan tâm tới vấn đề mở rộng hơn nữa chương trình quản trị kinh tế của chúng ta vào các lãnh vực cải cách pháp lý và hành chánh. 

Những vấn đề trong khu vực và an ninh:
            Về vấn đề của khu vực và an ninh, sự hợp tác với Việt Nam của chúng ta mở rộng một cách vững chắc. Trong ASIAN và APEC, sự can dự của chúng ta vào các vấn đề như tự do kinh doanh và chống khủng bố tăng tiến cùng với đà mở rộng ảnh hưởng của Việt Nam. Tại Hội Đồng Bảo An LHQ, chúng ta tìm kiếm sự hỗ trợ của họ trên tất cả các vấn đề an ninh và hòa bình thế giới. Đầu tháng này, Việt Nam đã bỏ phiếu thuận về một nghị quyết mới của Hội Đồng Bảo An LHQ cấm vận Iran. Chúng ta hy vọng củng cố sự hợp tác này suốt nhiệm kỳ của Việt Nam tại Hội Đồng. Đứng về phương diện song phương, chúng ta giúp Việt Nam xây dựng khả năng gìn giữ hòa bình và khả năng tìm-và- cứu cấp (seach –and –rescue) thông qua những chương trình Đào Tạo và Huấn Luyện Quân Sự Quốc Tế và các chiến hạm Hải Quân Hoa Kỳ đang víếng thăm các hải cảng Việt Nam. Tàu bệnh viện USNS Mercy dự định viếng Việt Nam vào mùa Hè năm nay.

Chống bệnh Aid/Hiv và cúm gia cầm:
            Trong vài năm vừa qua, sự hợp tác của chúng ta trên các vấn đề y tế nghiêm trọng như bệnh Aid/Hiv và cúm gia cầm đã gia tăng một các nhanh chóng. Nhà cầm quyền Việt Nam đã là người cộng tác nhiệt thành và cởi mở trong cả việc chống lại những de dọa về y tế tranh lãnh vực tòan cầu. Việt Nam đã hoan nghênh trợ giúp của Hoa Kỳ trong việc chống lại bệnh cúm gia cầm và làm việc chặt chẽ với chúng ta trong những lãnh vực này. Những đợt bộc phát cúm gia cầm đã khiến bốn người chết tại Việt Nam năm nay. Chúng ta đứng thứ nhì trong số tặng dữ lớn nhất cho Việt Nam, đã góp khỏang 23 triệu từ năm 2005, kể cả 10 triệu riêng tài khóa 2007. Sự trợ giúp của chúng ta tập trung vào chuẩn bị cho trường hợp khẩn cấp, khả năng thí nghiệm và ý thức của quần chúng. Chúng ta làm việc với Việt Nam để chuyển từ phản ứng trong trường hợp khẩn cấp có hướng dẫn sang phương pháp quy họach kéo dài. Việt Nam cũng nằm trong 15 quốc gia được Kế Họach Khẩn Cấp Cứu Trợ Bệnh AIDS của Tổng Thống lưu tâm và trợ giúp cho bệnh AIDS đã chiếm một phần rất lớn trong trợ giúp của chúng ta cho Việt Nam. Chỉ trong tài khóa 2007 không thôi, chúng ta đã chi 66 triệu cho việc phòng ngừa, chăm sóc và chữa trị bệnh AIDS.

Vấn Đề Nhân Quyền:
            Sự hội nhập kinh tế và văn hóa vào thế giới của Việt Nam đã giúp mở cửa xã hội và nới rộng tự do. Công dân Việt Nam ngày nay có tự do hơn trong đời sống, làm việc, thờ phượng và hưởng sự cải thiện đáng kể trong mức sống.
            Tuy nhiên trong lãnh vực chính trị và tự do của công dân, vẫn còn tồn tại nhiều khiếm khuyết. Người dân không có quyền tự do chọn lựa người lãnh đạo, họ bị bắt giữ khi phát biểu nguyện vọng của họ trong ôn hòa. Nhà cầm quyền tiếp tục duy trì hạn chế gắt gao về tự do báo chí, tự do ngôn luận, hội họp và nội dung trao đổi trên hệ thống liên mạng tòan cầu. Vào đầu năm 2007, nhà cầm quyền đã tung chiến dịch đàn áp các nhà đối kháng, bắt giữ và bỏ tù nhiều cá nhân có liên hệ tới Khối 8406 và các nhóm đấu tranh cho dân chủ khác. Một số vẫn còn đang bị giam giữ.
            Vào Tháng 11, 2007 nhà cầm quyền Việt Nam đã bắt giữ một nhóm gồm các nhà đấu tranh dân chủ trong đó có hai công dân Hoa Kỳ. Do áp lực từ chính phủ lẫn quốc hội và từ rất nhiều cơ quan khác trong cộng đồng thế giới, một vài người đã được thả tự do trong đó có một công dân Hoa Kỳ. Một công dân Hoa Kỳ khác là BS Nguyễn Quốc Quân vẫn còn bị giam giữ tại Thành Phố HCM. Trong số những nhà đối kháng có tên tuổi còn bị giam giữ có LM Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân. Trong chuyến viếng thăm Hà Nội tháng qua, tôi đã nêu những trường hợp này với các giới chức cao cấp Việt Nam và nhấn mạnh rằng chúng ta phản đối bất kỳ sự bắt giam những cá nhân đã phát biểu quan điểm của họ trong ôn hòa và cũng nói rõ rằng tất cả những ai bị bắt giữ như thế đều phải được trả tự do ngay lập tức.
            Bên cạnh những thóai bộ như vậy, đã có một vài tiến bộ trong hai năm vừa qua, đó là: Sự tái đàm phán về những vấn đề nhân quyền, việc trả tự do cho một vài tù nhân mà chúng ta quan tâm (prisoners of concern), cộng đồng quốc tế thăm viếng dễ dàng hơn vùng Tây Nguyên, các trại giam để thẩm lượng và sự thu hồi Nghị Định 31CP – một nghị định cho phép nhà cầm quyền vượt qua giới hạn luật pháp. Những giới chức thăm viếng từ Việt Nam, chẳng hạn như những giới chức cao cấp vùng Tây Nguyên thăm viếng Hoa Thịnh Đốn tháng này đã chú ý hơn đến việc gặp gỡ các cơ quan phi chính phủ (NGO), các nhóm người Mỹ gốc Việt và các thành viên của Quốc Hội để thảo luận về vấn đề nhân quyền. Chúng ta mạnh mẽ khích lệ hình thái làm việc chung này. Việt Nam cũng đã tiến hành một vài biện pháp can đảm để chống tham nhũng. Tuần qua, một viên chức cao cấp của Đảng CSVN tại Tỉnh Cần Thơ – Miền Nam Việt Nam đã bị khiển trách và cất chức vì tham nhũng trong việc mua bán đất.
            Cuộc Đối Thọai Nhân Quyền Hằng Năm của chúng ta đã tạo một thông mạch quan trọng để nêu những quan tâm của chúng ta về vấn đề nhân quyền với nhà cầm quyền Việt Nam. Chúng ta đã tổ chức cuộc Đối Thọai lần thứ hai sau khi tái tục vào Tháng Tư, 2007 và lần thứ ba dự định tại Hà Nội vào Tháng Năm. Đây là cuộc đối thọai thẳng thắn để chúng ta có thể đưa ra mọi quan tâm một cách không khoan nhượng (không nương tay). Nhà cầm quyền Việt Nam trân trọng điều này nhưng cải tiến rất ít. Họ phải làm nhiều hơn nữa. Chúng ta đã nhấn mạnh rằng cuộc Đối Thọai phải tập trung vào hành động cụ thể của nhà cầm quyền để cải thiện nhân quyền và phải có kết quả rõ ràng.
            Điều mà chúng ta muốn nhắn gửi tới nhà cầm quyền Việt Nam là Hoa Kỳ quan tâm tới vấn đề này không phải để làm mất ổn định chính quyền của họ mà vì chúng ta tôn trọng những giá trị phổ quát về nhân quyền và nhân phẩm con người. Chúng ta cũng nói rõ cho nhà cầm quyền Việt Nam biết cải tiến nhân quyền phục vụ quyền lợi của họ và làm cho đất nước mạnh hơn. Đây là những bước mà chúng ta muốn Việt Nam phải làm ngay, chẳng hạn như chấm dứt việc xử dụng những điều khỏan rất mơ hồ “vi phạm anh ninh quốc gia” như Điều 88 của Bộ Hình Luật nhằm đặt ra ngòai vòng pháp luật “các hành động tuyên truyền chống lại nhà nước”, và thả ngay tất cả tù chính trị hiện đang bị giam giữ.

Vấn Đề Tự Do Tôn Giáo:
            Tương phản với những tiến bộ chậm trễ trong lãnh vực tự do về mặt chính trị, quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam đang mở rộng một cách đáng kể. Từ 2004 tới 2006, Bộ Ngọai Giao đã liệt Việt Nam vào danh sách “Các Quốc Gia Cần Phải Theo Dõi” (CPC- Country of Particular Concern) vì những vi phạm tôn giáo ở đây. Trong thời gian này, nhiều cộng đồng tôn giáo bị sách nhiều, buộc phải giải thể và đất nước ghi nhận có 45 tù nhân tôn giáo. Nhà cầm quyền chính thức hỗ trợ cho một chính sách hà khắc, đặc biệt tại các vùng gọi là “nhạy cảm”. Vào Tháng 11, 2006 Việt Nam đã nói lên vấn nạn này và đây là sự vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo quy định trong Đạo Luật Tự Do Tôn Giáo Thế Giới 1998.
            Nhà cầm quyền Việt Nam dứt khóat thay đổi nhiều mặt trong chính sách trứơc đây đã hạn chế tự do tôn giáo và đưa ra đạo luật mới về tôn giáo trong đó cấm cưỡng bách giải thể, tôn trọng tự do thờ phượng của cá nhân và cho phép đăng bộ (đăng ký) hằng ngàn Giáo Đòan Protestant. Nhà cầm quyền đã thả những người mà Hoa Kỳ coi họ là những tù nhân cần quan tâm, hòan tòan vì tín ngưỡng. Họ chấp nhận mọi tin tức hoặc nghi ngờ liên quan đến việc thi hành các luật lệ này. Chúng ta đã theo dõi việc thi hành việc mở rộng quyền tự do tôn giáo một cách cẩn trọng- và được phép tiếp cận để làm công việc theo dõi. Chúng ta cũng phác giác một vài trường hợp trong đó nhà cầm quyền địa phương đã không tuân thủ luật mới. Khi chuyện đó xảy ra, chúng ta báo cho chính quyền trung ương biết, hoặc theo dõi nỗ lực của các nhóm đấu tranh cho tự do tôn giáo để bảo đảm quy dịnh mới được thi hành.
            Trong thời gian ở Hà Nội, tôi đã gặp gỡ các giới chức của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo và Giáo Hội Truyền Giáo Phúc Âm (Miền Bắc), họ đều xác nhận đã có nhiều cải tiến đáng kể, tuy nhiên họ quan ngại về những vụ tranh chấp đất đai, sự chậm chạp trong tiến trình đăng bộ. Vào Tháng 2, đông đảo giáo dân Hà Nội đã tụ họp cầu nguyện đòi hỏi nhà cầm quyền trả lại Tòa Khâm Sứ. Trước khi cuộc va chạm lên tới cực điểm, Tòa Giám Mục Hà Nội và nhà cầm quyền đã đồng ý giải quyết bằng con đường thương thảo. Các nhà lãnh đạo mà tôi gặp gỡ đã yêu cầu nhà cầm quyền cho phép giáo hội được quyền rộng rãi hơn trong các lãnh vực từ thiện và dịch vụ xã hội- như giúp đỡ người nghèo, giáo dục, y tế và cứu trợ thiên tai.
            Kể từ khi danh sách Các Quốc Gia Cần Phải Theo Dõi (CPC) được tháo gỡ, nhà cầm quyền Việt Nam đã ban hành bảy cấp đăng bộ cho các giáo đòan, đã tổ chức 3000 khóa huấn luyện và 10,000 khóa hội thảo cho các viên chức tòan quốc hiểu rõ việc thi hành luật lệ mới về tôn giáo. Những mối liên hệ với Vatican cũng đã cải thiện. Cuộc gặp gỡ giữa Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và Giáo Hòang Benedict XVI đã đưa tới việc thành lập Nhóm Công Tác Chung vào Tháng 10 năm ngóai để tiến hành việc thiết lập quan hệ ngọai giao.
            Việt Nam có thể và cần phải làm nhiều hơn nữa để tiến tới tự do tôn giáo. Chúng ta mong nhà cầm quyền Việt Nam thúc đẩy nhanh tiến trình đăng bộ cho các giáo đòan và tăng cường huấn luyện cho các giới chức địa phương về luật lệ mới. Tuy nhiên Việt Nam không phải là nước vi phạm tự do tôn giáo nghiêm trọng. Những nhà lãnh đạo của nhiều tôn tôn giáo chính trong nước xác nhận điều này. Điều quan trọng là chúng ta tiếp tục theo dõi tình hình. Và điều quan trọng nữa là chúng ta mong nhận thấy những tiến bộ và khích lệ những điều tốt nên tiếp tục.

Vấn Đề Nhận Con Nuôi ( Chúng tôi không dịch vì thấy không quan trọng)

Vấn Đề Giáo Dục:
            Một dấu hiệu nữa cho thấy mối liên hệ song phưong gia tăng là những liên hệ về giáo dục của chúng ta với Việt Nam đã mở rộng nhanh chóng. Các nhà lãnh đạo trẻ Việt Nam rất ưa thích học hỏi về xã hội và những giá trị của Hoa Kỳ; trợ giúp để họ có dịp chia xẻ những gì  chúng ta đã trải qua là cuộc đầu tư dài hạn và tối cần thiết của chúng ta. Học bổng Fulbright cho Việt Nam là một trong chương trình lớn nhất cho Việt Nam ở Á Châu. Chúng ta đang tiến hành để mở rộng hơn nữa với sự giúp đỡ của các công ty. Chương Trình Huấn Luyện Kinh Tế Của Học Bổng Fulbright Liên Kết Với Đại Học Havard (Harvard –affiliated Fulbright Economics Training Program) tại Thành Phố HCM thành công rất lớn, đã cung cấp cho hằng ngàn giới chức trung cấp Việt Nam những hiểu biết cần thiết về chính sách đối với công chúng để giữ đất nước đi vào đường hướng kinh tế thị trường. Hội Giáo Dục Việt Nam (Vietnam Education Foundation) đang giúp các sinh viên Việt Nam về khoa học và kỹ thuật tại các đại học tại Hoa Kỳ. Những giới chức lãnh đạo cao cấp của Việt Nam mong muốn Peace Corp đến Việt Nam, và Peace Corp cũng đã thảo luận với nhà cầm quyền Việt Nam về khả năng thiết lập chương trình cho một quốc gia. Chúng ta mong những cuộc thảo luận như vậy được tiếp diễn.
Di Sản Chiến Tranh:
            Sau hết, điều cần ghi nhận rằng chúng ta tiếp tục làm việc chặt chẽ với Việt Nam trong những vấn đề liên quan đến di sản của chiến tranh. Việc tìm kiếm đầy đủ các quân nhân Hoa Kỳ mất tích tại Việt Nam vẫn là vẫn là một thành tố quan trọng của mối liên hệ song phương. Từ năm 1973 chúng ta đã có thể hồi hương và ghi nhận 883 hài cốt của lính Mỹ, 627 quân nhân mất tích ở Việt Nam. Chúng ta tiếp tục nhận được sự hợp tác tốt đẹp từ nhà cầm quyền Việt Nam trong việc kiểm kê số mất tích, nhưng chúng ta đòi hỏi thêm về hồ sơ liên quan đến lực lượng của họ ở Lào và Cambodia là nơi mà nhìêu trường hợp chưa có giải đáp. Cuối năm nay, chúng ta sẽ họp với các giới chức Việt Nam để đánh giá 20 năm hợp tác trong lãnh vực này và tìm ra phương thức tìm kiếm tốt hơn.
            Hoa Kỳ là quốc gia viện trợ nhân đạo nhiều nhất cho Việt Nam qua chương trình mine-action program, cung cấp 40 triệu từ năm 1993. Ngòai ra, chúng ta đã cung cấp 43 triệu trợ cấp năm 1989 qua Ngân Khỏan Leahy War Victims Fund để giúp cho tất cả người tàn phế tại Việt Nam. Sự trợ giúp từ Quốc Hội đã giúp thảo gỡ một vấn đề rất tế nhị: đó là vấn đề thuốc khai quang nhiễm chất dioxin. Từ năm 2002, chúng ta đã cung cấp 2 triệu để Việt Nam có khả năng giải quyết những môi trường bị nhiễm chất dioxin, và hiện nay chúng ta dự định một chương trình cung cấp 3 triệu do ngân khỏan riêng của Quốc Hội để làm sạch môi trường và trị liệu. Sự can dự của Hoa Kỳ đã thúc đẩy thêm những nguồn trợ giúp khác như Ford Foundation, UNDP và Czech Republic cùng nhau hợp tác để cùng nói lên quan tâm về tác dụng của chất dioxin. Trong khi Hoa Kỳ và Việt Nam có thể có điểm bất đồng trên vấn đề tế nhị này, song chúng ta đã đạt tới thỏa thuận với Việt Nam là giúp đỡ cho tất cả những người tàn phế bất kể đó là ai, và trình bày vấn đề trong tinh thần hợp tác, không cường điệu.
Kết Luận:
            Thưa bà chủ tịch, trước khi dứt lời, tôi muốn nhấn mạnh đến vai trò trọng yếu của Quốc Hội trong việc giúp đỡ đẩy nhanh tiến trình bang giao giữa hai nước trong những năm vừa qua.Với sự trợ giúp của Quốc Hội, chúng ta tái lập bang giao với Việt Nam và biến họ thành đối tác thương mại bình thường và thừơng trực. Khi mối liên hệ với Việt Nam ngày càng cải tiến, Quốc Hội cũng đã cũng đã tăng cường nỗ lực để mở rộng sự can dự này và cũng bảo đảm rằng nhân quyền và tự do tôn giáo vẫn là những ưu tiên hàng đầu trong mối quan hệ song phương.
            Mười ba năm qua, mối liên hệ của chúng ta với Việt Nam đã chuyển hóa từ đối đầu sang hợp tác. Đất nước này đã thay đổi lớn lao trong thời gian qua, và đời sống của đại đa số nhân dân đã cải tiến có thể thấy rõ. Những khó khăn vẫn còn tồn tại, đặc biệt trong lãnh vực nhân quyền và dân chủ, và chúng ta phải thẳng thắn nói ra điều này. Vì quyền lợi của đất nước Hoa Kỳ, chúng ta tiếp tục cùng với họ như một người hợp tác để chuyển hóa Việt Nam, và khi cần thiết vẫn có những chỉ trích xây dựng.
            Xin cám ơn quý vị đã cho tôi cơ hội phát biểu ngày hôm nay. Tôi sãn sàng chờ đón những câu hỏi từ quý vị.
Tài liệu: Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ (Website)
Đào Văn Bình chuyển ngữ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét