Thứ Tư, 10 tháng 8, 2011

Vận Hội Mới Của Dân Tộc Việt


Trong 5 năm qua, tôi chưa bao giờ viết ra trên giấy trước khi phát biểu trên làn sóng này. Bình thường, tôi chỉ sắp xếp ý tưởng trong đầu và nói ra.


Hôm nay là một trường hợp ngoại lệ vì tính cách rất quan trọng của vấn đề mà tôi phải viết ra giấy trước khi nói chuyện cùng đồng bào. Khi bắt đầu nói chuyện trên đài này, tôi dự trù sẽ phân chia các buổi nói chuyện làm 2 phần. Phần I là cố gắng dùng khả năng hiểu biết của mình để đóng góp vào việc giải thích cho đồng bào hiểu trong các điều kiện cho phép về nhiều vấn đề rất ư là phức tạp của tình hình thế giới trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai. Chúng ta càng hiểu các vấn đề phức tạp ấy bao nhiêu thì trí tuệ ta càng tăng bấy nhiêu, nhiên hậu chúng ta có thể gạt các khác biệt sang một bên, để cùng nắm tay nhau, nhận ra nhau và cùng nhau nhìn chung về một hướng. Tương lai huy hoàng đang chờ đón dân tộc thân yêu của chúng ta ở phía trước. Ðể chúng ta có thể ngẩng cao đầu lên mà bắt tay cùng nhân loại tiến vào thời kỳ Nhân Chủ (Humocracy) khắp toàn cầu.


Cho dù phía trước đầy huy hoàng sáng lạn đấy. Nhưng trong ngắn hạn, chúng ta vẫn phải đối diện với những thử thách nhất định do sự đối đầu giữa 2 khuynh hướng: Một là khuynh hướng Nhân Chủ trên toàn cầu và hai là khuynh hướng muốn thống trị thế giới về lâu về dài theo cách dùng dân số đông, nước rộng để chiếm đất đai, tiêu diệt văn hóa và thống trị các dân tộc nhỏ bé chung quanh.


Những diễn biến của tình hình hiện nay cho thấy rằng chiều hướng Nhân Chủ Hóa Toàn Cầu là không thể đảo ngược được. Và rằng các thế lực đi ngược lại chiều hướng ấy sẽ bị dẹp tan trong một tương lai rất gần kề.

Vì thế, giai đoạn thứ II của chương trình mà tôi đã dự liệu bắt đầu từ hôm nay. Vì vậy các chủ đề về thế giới sẽ được tôi giảm thiểu xuống mức độ vừa đủ hầu để dành nhiều nỗ lực, thời gian vào việc bàn luận các vấn đề thiết thực liên quan đến việc xây dựng lại đất nước trong tương lai sao cho tương xứng với trí tuệ VN, trí tuệ nòi giống Bách Việt.


I). Lãnh Ðạo :


Trước hết, tôi sẽ nói về Lãnh Ðạo:


Khi nói đến xây dựng, tuyệt đại đa số các trí thức trong cũng như ngoài nước tùy theo chuyên môn của mình chỉ quen nói đến các vấn đề thuộc về ước muốn được hệ thống hóa lại đôi chút. Chứ ít ai, nếu không nói là chưa có ai, có thể đưa ra được một bức tranh toàn diện cho vấn đề rất ư phức tạp này. Mà đó lại là một vấn đề thiết thực liên quan đến sự thịnh suy của bất cứ dân tộc nào. “Chiến thắng trong chiến tranh thì dễ, nhưng chiến thắng trong hoà bình thì thật là khó”. Bởi vì trong chiến tranh kẻ thù hiển hiện trước mắt, trong hoà bình, kẻ thù nằm trong lòng mỗi người chúng ta. Nếu ta không (tự thắng mình để rồi thắng người) tự thắng được chính bản thân mình thì ta chẳng thể xây dựng lại được đất nước đến nơi đến chốn. Cho nên vài trò của người lãnh đạo không thể nói chung chung theo cảm tính của nhân dân được.


Sự thất bại của bất cứ xã hội nào trước tiên và trên hết chính là sự thất bại của giới trí thức. “Cứ nhìn giới trí thức là biết xã hội”.


Xây dựng luôn bao gồm 2 phần: Vật chất và tinh thần. Nhiều người, nếu không nói là hầu hết, khi nói đến xây dựng họ tưởng tượng ngay đến làm cái xe, xây cái nhà, lập hãng xưởng, tức là những vật chất vốn được coi là phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Ít ai nghĩ đến tầm quan trọng của trí tuệ.“Thiếu trí tuệ, anh chẳng làm được gì cả”. Nếu anh làm được cái gì đấy thì cái đó chỉ là vay mượn chứ không phải là của anh.

Bài học về vấn đề này thì rất nhiều. Chúng xuất hiện nhan nhản ở nhiều quốc gia kể cả các quốc gia vốn tự hào về lịch sử lâu dài của mình. Thí dụ điển hình là Trung quốc, ở đây tôi không nói về cuộc chiến tranh lạnh nữa mà tôi chỉ so sánh về mặt trí tuệ giữa Nga sau ông Gorbachev và Tàu với ông Ðặng tiểu Bình mà thôi.

Khi Liên Xô tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa đế quốc với cái áo CS thì tự thân nước Nga đã tiến trước Trung quốc về mặt tinh thần. Trong khi Trung quốc lại lún sâu vào chủ nghĩa bành trướng tức là cái thứ mà cả nhân loại này đã đấu tranh để phế bỏ từ lâu rồi. Khi được phương Tây thưởng công vì đã đứng về phía Mỹ để tạo tiền đề cho Liên Xô tan rã, thì Trung quốc lại tưởng rằng mình nghiễm nhiên trở thành một siêu cường, Trung quốc tìm cách lấn áp các nước nhỏ chung quanh và đem khoe khoang sự vĩ đại của Trung hoa trong khi thực chất chỉ là vay mượn, sao chép.“Ðó là thái độ của những kẻ rất ư là nhược trí”.

Trở lại chuyện Nga và Trung quốc, từ sự phân tích ở trên, rõ ràng là cuối cùng thì Nga sẽ vượt qua Tàu trong một tương lai rất gần.

Như thế, khi nói đến Trí Tuệ, ta phải nói ngay đến con người. Và ta phải đặt câu hỏi là các dự án do các trí thức VN nghĩ tới liệu có thể thực hiện được hay không? Câu hỏi này đánh dấu rất rõ nỗi âu lo là liệu trí thức VN có đủ khả năng hành động thực tiễn hay không. Mà nói cho cùng ra thì không phải chỉ ở VN không thôi mà hiện tượng này phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. “Trí thức đích thực luôn luôn không có nhiều trong bất cứ xã hội nào”. Thế mới nói lên sự quan trọng của lãnh đạo chứ!. (Xin lưu ý rằng: Trí Thức không có nghĩa là những người chỉ có bằng cấp, mà trí thức còn là những người phải thông hiểu được mọi chuyện thế sự nữa, vì vậy nên sách có câu. “Thế sự đổng minh giai học vấn, Nhân tình thức đạt ấy văn chương”). “Trí thức đích thực phải là một nhà lý luận (tôi không nói ngoa ngôn đâu) đồng thời phải là một nhà tổ chức và một nhà hành động nữa mới được”. Cụ Lý Ðông A nói chí lý lắm thay!

Tôi cũng phải nhấn mạnh với quý vị đồng bào về một vài khía cạnh khác của vấn đề con người. Ngoài 3 yếu tố: Lý luận, Tổ chức và Hành động, bậc thông tuệ đều là những người có cái tâm rất “Trống”, nghĩa là “ Vô Ngã”. Luôn âu lo cho cái lo của toàn dân và nhân loại, vượt thoát khỏi các câu thúc của lẽ thường tình để nói lên cái ước vọng chính đáng của con người và với tính cách rất người. Những bậc thượng trí như vậy nhiều khi hàng trăm năm mới có được một vài người.

Như thế, vai trò của lãnh đạo là quan trọng nhất. Thiếu lãnh đạo đích thực, mọi kế hoạch sẽ chẳng đi đến đâu, hoặc có tiến thì tiến rất chậm, tài nguyên sẽ bị phung phí rất nhiều và là đầu mối của cái họa. Trung quốc, Cuba, Iran, VN.v.v… hoặc Liên Xô cũ là biểu hiện rõ nét của nhận định này.

Trở lại vấn đề của đất nước ta hay của bất cứ quốc gia nào khác, vấn đề lãnh đạo phải là vấn đề chủ chốt trước khi nói về các kế hoạch xây dựng (Ở đây tôi dùng chữ xây dựng mà không dùng chữ phát triển hay tăng trưởng. Vì xây dựng bao gồm một khái niệm rất sâu rộng, liên quan tới việc tái tổ chức lại toàn bộ xã hội về tinh thần cũng như vật chất. Trong đó phát triển chỉ là một phần mà thôi) và rõ ràng là lãnh đạo mà ta nói đến ở đây không phải là một con người, mà cần phải bao gồm một nhóm người thông tuệ cùng nhau chung sức lo toan cho việc chung của xã hội. Ðiều này phù hợp với các nguyên tắc dân chủ cũng như sự an toàn cho xã hội vì tránh được nạn độc tài cá nhân.

II) Thẩm Ðịnh Lịch Sử:

Trên làn sóng này, tôi đã nói nhiều lần là: Thế giới tuy gồm gần 200 quốc gia thật đấy, nhưng số các quốc gia dám làm một cuộc thẩm định lịch sử nhân loại một cách khách quan toàn diện thì lại rất hiếm hoi. Tuyệt đại đa số các quốc gia khác đều chỉ đi theo thôi, nhanh hay chậm tùy theo quá khứ lịch sử của từng quốc gia và tùy thuộc vào các diễn biến quốc tế. Thẩm định lịch sử không phải làm một lần rồi xong, bởi vì lịch sử diễn biến hàng ngày, hàng giờ. Cụ Lý Ðông A có lý quá khi nói: “Chính trị ngày nay là lịch sử của ngày mai”.

Cho nên thẩm định lịch sử đứng đắn cho ta thấy hướng đi dài hạn cả hàng trăm năm, để ta không dẫn dắt dân tộc đi lạc hướng và rút ra được cái hay cái dở của người khác, dân tộc khác để đem về làm bài học cho mình và làm thăng tiến cái trí tuệ của mình, để rồi lại dẫn dắt dân tộc đi những bước mới vững chắc hơn, an toàn hơn.

Rất nhiều người thườngg tự hỏi: Tại sao nước Mỹ mạnh với một lịch sử chỉ có hơn 200 năm lập quốc? Vì địa dư thuận tiện 2 bên bờ đại dương chăng? Mexico cũng y như vậy, tại sao Mexico không mạnh? Xin thưa!. Cái mạnh của nước Mỹ bắt nguồn từ những con người thông tuệ, biết thẩm định lịch sử (lúc đầu dùng phương pháp Tây phương thuần tuý, sau đó kết hợp bằng phương pháp Ðông Tây) một cách trọn vẹn và quyết tâm tiến tới hữu cầu trong một tinh thần vô ngã (hữu cầu là: Cầu cho mình và cho nhân loại bình an).

Ðiều mà các nhà lập quốc tiên khởi Mỹ nói về quyền bình đẳng là bình đẳng giữa những người có tài sản, đóng thuế. Tức là quyền bình đẳng chỉ dành cho người da trắng. Nhưng các diễn biến quốc tế trong 2 thế kỷ sau đó đã thay đổi bộ mặt của thế giới rất nhiều. Lẽ đương nhiên nước Mỹ phải chuyển mình để đáp ứng với tình hình mới, với trào lưu mới của nhân loại. Ðiều này được thể hiện rõ ràng qua các tu chính án về hiến pháp. Hiến pháp nước Mỹ không ngừng được tu chính làm cho nước Mỹ ngày càng được cách tân lên, để từng bước từng bước khẳng định vai trò lãnh đạo toàn cầu của nước Mỹ.

Nền dân chủ là con đường tiến tới của nhân loại được khởi phát trong các năm cuối của thế kỷ 18 bởi J.J Rousseau, Diderot, lúc mà chủ nghĩa phong kiến ngày càng trở nên không còn đáp ứng được với đà tiến triển của nhân loại nữa. Ðiều này làm cho các quan hệ sản xuất tiến lên một bước mới và sức mạnh nghiêng về phía những ai nắm được của cải vật chất nhiều hơn, trong khi giới quý tộc và tăng lữ ngày càng trở nên lỗi thời, lạc hậu. Do đó, các vương triều Âu châu sụp đổ mau chóng. Và từ đó, sự lãnh đạo một quốc gia được đặt vào tay nhiều người hơn. Nhưng quan hệ sản xuất mới lại tạo ra giới chủ và thợ. Thế là mâu thuẫn xã hội lại phát sinh ra trong lòng các quốc gia. Rồi các quốc gia dân chủ Anh, Pháp, Ðức, Nga lại mâu thuẫn nhau về quyền lợi kinh tế và an ninh. Ðiều này dẫn đến một loạt các cuộc chiến tranh mà ta đã từng chứng kiến. Sự xuất hiện chủ nghĩa CS khi được người Nga xử dụng như một vỏ bọc cho chủ nghĩa bành trướng “Đại Nga” đã lại làm cho tình hình trở thêm phức tạp. Hơn nữa Hoa kỳ nhìn các biến cố này bằng một con mắt của những người thực dụng. Hoa kỳ hiểu rằng: Âu Châu Cổ (Old Europe) đang ngày càng trở nên lỗi thời, lạc hậu, Hoa kỳ phải mau chóng nắm lấy vận hội để tiến lên chi phối toàn cầu, nhưng không mắc phải những lỗi lầm của các quốc gia phương Tây khác: Đó là việc đi các chiếm thuộc địa.

Ðể giải quyết các mâu thuẫn ấy, chủ trương của Hoa kỳ cũng mang tính thực tiễn không kém. Ðó là: Nguyên tắc về một thị trường tự do. Khi đẻ ra sách lược này, Hoa kỳ hiểu rõ sức mạnh kinh tế của mình. Và ít ra trong thời gian dài hơn 50 năm cho đến năm 1945, sách lược ấy dù biện minh thế nào đi nữa thì vẫn mang nặng dấu ấn của một thứ chủ nghĩa thực dân mới. Bế tắc thực sự xảy ra khi các quốc gia mới thu hồi độc lập với thị trường khổng lồ, với dân số chiếm đến 70% dân số toàn cầu đang muốn khẳng định vài trò của mình và tiếp theo sau đó là chủ nghĩa CS đang bành trướng mau lẹ. Ðiển hình cho tình hình này là các cuộc chiến Ðông dương (1945-1954), Triều tiên, vụ Liên xô đem hỏa tiễn đến Cuba năm 1962. Tất cả các điều ấy cho thấy dù Hoa kỳ rất chủ động trong sách lược ngoại giao, quân sự cũng như kinh tế, nhưng đứng về mặt Chính Lược mà nói thì “Hoa kỳ không thể nào biện minh cho các hành động của mình với tính cách là một siêu cường trên thế giới”.

Như thế, tuy Hoa kỳ có sức mạnh về nhiều mặt, làm được nhiều chuyện kinh thiên động địa, nhưng họ lại thiếu một thứ lý thuyết để có thể biện minh cho các sách lược  của mình trước đà xuất hiện đông đảo của các quốc gia đang phát triển khắp thế giới, trong điều kiện mà chính ngay các khái niệm dân chủ được đề ra ở thế kỷ 18 cũng ngày càng trở nên hẹp hòi hơn so với các vấn đề của thế giới, mà khoa học đã làm cho thế giới ngày càng nhỏ hẹp lại. Ðỉnh cao của các bế tắc này được thể hiện rất rõ trong các cuộc chiến VN lần thứ 2 từ năm 1954-1975. Mặc dù về mặt Chiến Lược thì quyết định của Hoa kỳ khi tham chiến ở VN là một quyết định dứt khoát, kiên định và thích đáng, nhưng về mặt chính nghĩa thì nó vẫn mang một niềm hoài nghi, một thế bí nào đó về mặt tâm thức. “Danh bất chính thì ngôn bất thuận là vậy”.

Khi các tổng thống Diệm, Kennedy bị giết chết, dù động cơ đằng sau các vụ này là việc gì đi nữa, thì trong lòng dân Mỹ và trước dư luận quốc tế vấn đề lương tri của nước Mỹ bị đem ra thử thách. Và ban lãnh đạo Mỹ phải đối diện với một sự chọn lựa nhọc nhằn, đầy khó khăn mà các phòng thí nghiệm tân tiến nhất của nước Mỹ như: Los Alamos hay các viện đại học danh tiếng của Mỹ dường như cũng bế tắc toàn diện.

Một lần nữa, nước Mỹ lại chứng tỏ bản lãnh linh động của mình khi biết quay về phương Ðông để tìm một giải pháp thỏa đáng cho những vấn nạn toàn cầu này. Nói đến phương Ðông thì Ấn Độ, Tàu kể cả Nhật Bản cũng không thể cống hiến cho nhân loại và Hoa kỳ một câu trả lời thỏa đáng được. Kỳ diệu thay! Câu trả lời thỏa đáng đó lại xuất phát từ cụ Lý Ðông A của VN chúng ta.

III). Cụ Lý và Hoa Kỳ:

Theo các tài liệu phổ biến rộng rãi cho thấy cụ Lý Ðông A là người đã tổng hợp hài hoà 2 tinh hoa Ðông và Tây. Từ đó cụ Lý đề ra hướng đi của nhân loại trong tương lai. Cụ Lý đã sớm nhìn thấy các giới hạn của chủ nghĩa dân chủ, dân tộc hẹp hòi đặt ra cho toàn cầu. Tình hình này đã được thể hiện rõ ràng qua 2 cuộc thế chiến. Cụ Lý cũng nhìn thấy rõ là các học thuyết khác nhau liên quan đến việc tìm hiểu về con người, kể cả các tôn giáo hiện đang đi dần tới chỗ bế tắc. Và rằng: Nhân loại sẽ phải đối diện với vấn đề môi sinh một cách nghiêm trọng .Cụ hiểu hơn ai hết, rằng thế giới không thể tồn tại theo mô thức cũ (Cụ Lý lập thuyết vào thập niên 40 của thế kỷ 20) nữa. Thế giới cần một hướng đi mới nhằm tiến tới một thế giới hài hoà hơn, phục vụ con người sao cho tốt đẹp hơn. Và cũng đồng thời một lần giải quyết cho rốt ráo những mâu thuẫn do lịch sử hàng ngàn năm để lại cho nhân loại.

Nhưng cụ Lý không nói suông như các “Học Thuyết” khác. Thay vào đó, cụ đề ra cả một sách lược cho dân tộc VN cũng như đưa ra tầm nhìn thấu thị về rất nhiều vấn đề của cục diện thế giới trong tương lai. Ðiều này thể hiện đúng với 5 lời thề của Cụ đó là: “Thề giác biện chứng lớn, Thề tu tính mệnh ta, Thề cứu nòi giống Việt, Thề giúp loài người yếu, Thề cùng vũ trụ hoà”.

Cách nhìn của cụ Lý về thế giới thể hiện cái huệ nhãn của một thiền sư đệ nhất trên thế giới thời cận đại này. Kết hợp với một sự quán triệt sâu sắc về dịch lý và được thể hiện qua nhãn quan phương Tây, đã làm cho cụ Lý có thể so sánh với cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện 5 thế kỷ trước đây. Như cụ Trạng Trình, cụ Lý đã nhìn xuyên suốt được diễn tiến của quá khứ và tương lai.

Cho nên những ai khi đọc sách cụ Lý Ðông A mà chỉ biết đánh giá: Ðó là các vần văn thơ yêu nước là hoàn toàn sai, chẳng biết tí gì về cụ Lý cả. Những ai đem toán học, thiên văn học hay các học thuật khác thuần túy phương Tây vào để giải thích về tư tưởng cụ Lý cũng hoàn toàn sai.

Muốn hiểu về cụ Lý, người đọc phải có cái tâm lành hoà nhập với cái tâm chung của toàn nhân loại, phải có cái Tâm trống để có thể tiếp thu tổng hợp được cái tinh túy của nhân loại bên phương Ðông cũng như phương Tây, phải kiên định trong 5 lời thề mà cụ Lý đã đề ra. Khi đạt được các điều ấy, người đọc sẽ tự cảm thụ được các ý mà cụ Lý muốn trao truyền.

Ðể minh chứng cho nhận định này, tôi xin đan cử vài trường hợp điển hình: Khi cụ Lý nói “Những người của 40 (thập niên 40) phải là những “Kim Cương Thắng Nhân”. Những người của 80 sẽ thong thả hơn” (Trích Huyết Hoa). Thì ta hãy xem, ông George W Bush (Hoa Kỳ), ông Tony Blair, (Anh) là những người sinh vào thập kỷ nào của thế kỷ trước? Rõ ràng người Anh, người Mỹ đã biết đi theo sách vở của cụ Lý. Ta hãy xem ông J. Chirac bao nhiêu tuổi, sinh thập kỷ nào? Nước Pháp đang bạc nhược tinh thần, trí óc già nua quả đâu có sai. Ðiều đáng trách là giới trẻ Pháp vẫn đang đắm chìm trong vũng lầy về tri thức, chưa thể thoát ra ngoài được. Nước Pháp đang trên đà suy tàn. Lỗi tại ai? Tại giới trẻ Pháp hay tại giới trí thức lãnh đạo Pháp quá dở ?

Lại nữa! Lúc cụ Lý viết bài “Dương Tử Giang Âm” trong quyển Ðạo Trường Ngâm thì khi đó CS Tàu chưa thống nhất được nước Tàu, đập Tam Khẩu nằm trên thượng nguồn sông Dương tử chưa được xây cất. Cái đập này mới được xây dựng để thỏa mãn cái tự ái của mấy ông Tàu đỏ mà thôi. Bình thường thì dòng sông nào cũng chảy êm đềm, dòng sông mà phát sinh ra tiếng động lớn thì quả là có vấn đề rồi. Ðiều này được chiêm nghiệm thật rõ ràng khi chỉ mới đây thôi bộ Quốc phòng Mỹ đã khuyến cáo Ðài loan là trong vòng 2 tới 4 năm nữa, Trung Cộng sẽ bất thần tấn công Ðài Loan mà Hoa kỳ không thể ra tay cứu giúp kịp thời. Trong trường hợp đó, Ðài Loan nên xử dụng các phương tiện có sẵn trong tay để ra tay trước hầu chiếm ưu thế. Khi tấn công trước thì một trong những mục tiêu quan trọng cần phải phá hủy là đập Tam khẩu nằm trên sông Dương tử của Trung quốc. Như thế chữ “Âm” trong bài “Dương Tử Giang Âm” rất đúng với tình huống này. Ngoài ra, nếu hiểu sâu rộng hơn, không phải đợi đến khi đập Tam Khẩu bị nổ tan thì mới có “Âm” vang. Mà khi bộ Quốc phòng Mỹ đề nghị Đài Loan tấn công đập Tam Khẩu khiến Tàu tức tối phát điên và chửi Mỹ thậm tệ, thì “Âm” vang trên sông Dương Tử đã nổ ra thật sự rồi.

Hiện tại thì Hoa kỳ đã chơi ván bài lật ngửa với Trung Cộng. Những gì tôi đã trình bày trong suốt 5 năm qua trên làn sóng này nay đã thành hiện thực. Bản tin này cho dù đưa ra với mục đích để trấn áp Hoa Lục hay để chuẩn bị dư luận trong việc Hoa kỳ sẽ bán cho Ðài Loan 18 tỷ đô la trang thiết bị quân sự, thì thực tế tình hình này cho thấy chính sách của Mỹ với Tàu đã đổi chiều 180 độ. Ðến độ, Trung Cộng phải cho Thiếu tướng Lưu Nguyên, (con của Lưu thiếu Kỳ) lên tiếng mạt sát Mỹ thậm tệ. Ông tướng này coi việc Mỹ đề nghị Ðài Loan đánh đập Tam khẩu của Tàu là đề nghị của một kẻ bịnh tâm thầm trong chiến tranh lạnh với đầu óc của quỷ dữ.

Thêm nữa, Ủy ban Lưỡng đảng của quốc hội Hoa kỳ đã đưa ra một loạt các khuyến cáo, yêu cầu giới lãnh đạo Mỹ thay đổi các đường lối trước đây của Hoa kỳ với Trung cộng một cách toàn diện và triệt để. Tức là bãi bỏ các cam kết với Trung cộng về một nước Trung Hoa đã được Tổng thống Richard Nixon ký kết với Chu Ân Lai qua thông cáo chung Thượng Hải năm 1972, cũng như bãi bỏ các đặc quyền, đặc lợi kinh tế mà Mỹ đã dành cho Tàu suốt mấy chục năm qua. Theo như các khuyến cáo này thì Tàu đang đe dọa sự phát triển kinh tế và an ninh của nước Mỹ cũng như của các lân bang tại Á châu.

Hai câu cuối của bài thơ “Dương Tử Giang Âm” như một câu hỏi đối với thế hệ sinh vào thập niên 40 khi cụ Lý viết:

- Cây non thức dậy hay chưa,

- Tấm lòng Dương Tử đợi đưa tin hồng.

Ý nghĩ 2 câu thơ này thật rõ ràng: Cụ Lý muốn hỏi các chuẩn bị của thế hệ 40 ở hải ngoại và trong quốc nội hiện đã tới đâu? Đã sẵn sàng chưa? Khi nghe tiếng nổ từ sông Dương tử thì tin vui sẽ tới đấy. Thật là đầy ý nghĩa. Cái ý này còn được thể hiện rõ qua bài thơ “Khai bút trong Ðạo Trường Ngâm”.

Nói đến “Duy Nhân” (Duy Dân Nhân Chủ là kết hợp con người lại, và đề cao Học Thuyết Nhân Chủ) mà không nói đến Nho học thì thật là thiếu sót. Kim chỉ nam của Nho giáo do Khổng tử soạn lại cũng gồm 5 lời thề: “Thành Kỳ Ý Chính Kỳ Tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” (phần này không chắc là sản phẩm thật của Khổng tử, vì Khổng tử nói: “Thuật Nhĩ Bất Tác” nghĩa là tôi chỉ san định lại mà không sáng tác gì cả).

Thực tế thì 5 phép tu thân này mang ý nghĩa gì?. Chúng vừa mang ý nghĩa giáo dục sĩ phu, nhưng đồng thời nó cũng cấy vô đầu người Tàu về một chủ nghĩa bành trướng Hán tộc, coi mình là nhất, các dân tộc chung quanh chỉ là man di mọi rợ (Đông Man, Tây Nhung, Nam Di, Bắc Rợ). Nếu đem so sánh Khổng tử với cụ Lý Đông A thì 5 lời thề của cụ Lý đề ra cao siêu hơn nhiều, nhân đạo hơn nhiều và thực tiễn hơn nhiều. Chúng đáng là mẫu mực để cả nhân loại noi theo.

Phàm bất cứ lý thuyết nào cũng phải trải qua các thử thách với thời gian. Ta hãy xem chủ nghĩa CS do Marx đề ra tồn tại được bao lâu?. Không quá 100 năm!. Thế mà Học Thuyết Nhân Chủ của cụ Lý đã tồn tại được 60 năm qua mà chưa có một chính quyền nào thực hiện trong chỗ công khai. Trong khi đó sức mạnh, tiềm năng của học thuyết này ngày càng gia tăng. Những ai thực sự hiểu về cụ Lý đều là những người có trí tuệ rất cao. Nhưng cái hay của các vị này là họ đều im lặng. Những người tự nhận là Duy dân hay con cháu Duy dân một cách công khai, thì lại là những người hiểu rất ít về Ðại Biện Chứng hay không thông hiểu Ðại Biện Chứng. Như vậy làm sao họ hiểu được các vấn đề liên quan đến “Chính Lược”, tức là các vấn đề liên quan đến sự tiến hoá của nhân loại hàng trăm năm tới. Họ chẳng thể hiểu được Chiến Lược, tức là các vấn đề cụ thể liên quan đến sinh mạng nhân loại trong 20 hay 30 năm tới, thì làm sao họ hiểu được các vấn đề chiến thuật.

Một học thuyết có thể giải quyết các tồn tại của lịch sử nhân loại do hàng ngàn năm để lại, một học thuyết có thể giải quyết các mâu thuẫn sâu sắc về tôn giáo và chủng tộc, thì học thuyết ấy quả thực rất đáng để thế giới noi theo. Và dòng giống Bách Việt rất đáng hãnh diện vậy.

IV) Mối Quan Hệ Giữa Ban Lãnh Ðạo Mỹ và Ban Lãnh Ðạo VN:

Lịch sử VN trong hơn 60 năm qua vẫn còn chứa đựng rất nhiều bí ẩn, ngay cả với nhiều người tự nhận là biết nhiều hoặc đã từng có thời lãnh đạo đất nước. Các sự can thiệp từ các quốc gia bên ngoài VN mặc dù chưa được bạch hóa, ta vẫn có thể thấy được từng động tác của họ khi can thiệp vào vấn đề VN. Phần bí ẩn nhất lại nằm chính trong nhóm thân tín của cụ Lý Đông A. Ðặc biệt là nhóm tại Mỹ.

Khi thành lập đảng Duy dân, cụ Lý muốn xiển dương học thuyết “Duy Nhân” càng mau càng tốt để cứu giúp dân tộc đang bị lầm than dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Nhưng đối với cánh CS VN thì cụ Lý và những người theo ông phải là “Tối Hậu Ðịch Nhân”, là kẻ thù cho mộng ước nhuộm đỏ VN và Ðông dương. Cho nên sau khi căn cứ của Cụ Lý tại đồi Nga Mi bị Việt cộng tấn công (1946), cụ Lý đã đi tới chủ trương là cần gửi người đi ra ngoại quốc, tới các nơi được coi là quan trọng hơn hết đối với vận mệnh VN với một mệnh lệnh “Lặn sâu và trèo cao”. Do đó Bắc kinh, Rome, Washington đều có người của cụ Lý gởi đến sinh sống. Trong đó Washington được coi là trọng điểm cần tranh thủ nhất. Còn bản thân cụ Lý ở đâu không ai biết. Mặc dù có tin đồn là cụ Lý đã bị Việt cộng “giết chết” trong trận chiến tại đồi Nga Mi. Nhưng Hà Nội không có bất cứ bằng chứng nào là họ đã giết được cụ Lý và hiện tại họ cũng vẫn đang ra sức tìm cụ. Một người quá am tường về dịch lý như vậy thì khó lòng bị bức hại ở đồi Nga Mi cách dễ dàng được.

Các cụ VN được phái sang Mỹ hẳn nhiên cũng gặp rất nhiều khó khăn trong buổi ban đầu. Vì theo chỗ tôi được biết, người Mỹ sau năm 1945 vẫn còn rất kiêu hãnh và Ban Lãnh Ðạo Mỹ lúc đó cũng chưa hình thành trọn vẹn trong thực tế. Ít ra mãi đến năm 1947 thì CIA, Bộ Quốc Phòng, Cơ quan An ninh Quốc gia mới được thành lập để tạo ra trung tâm quyền lực như ta thấy hiện nay. Hiển nhiên những người Mỹ mà cụ Lý tiếp xúc bí mật vào thời ấy cũng còn trẻ. Ắt hẳn họ chưa thể thuyết phục được các Wise Men hay còn được gọi là các nhà Kiến tạo của nước Mỹ như A. Harriman,..vvv… Cho nên chắc hẳn phải ít là tới cuối thập niên 1960 thì những người mà cụ Lý phái đến Mỹ mới tạo được các mối dây liên lạc tin cậy với Ban Lãnh Ðạo Mỹ. Cho nên mặc dù nhìn thấy dân tộc bị điêu linh, tàn phá, các cụ VN vẫn phải đau lòng chấp nhận thực tế phũ phàng này.

Vị thế của các cụ VN dường như được tăng tiến rất nhiều khi ông Ronald Reagan lên làm tổng thống Mỹ. Vào lúc đó với các lời cố vấn của các cụ VN, nước Mỹ đã đạt được một số các thành quả nhất định. Nói rõ ra là học thuyết Lý Ðông A được Hoa kỳ chấp nhận như là một con đường đi của nhân loại mà Hoa kỳ có sứ mạng dẫn đầu.

Chính trong thời điểm này mà tập thơ Vô Ðề của tác giả Khuyết Danh mới được tung ra, như là một tín hiệu báo trước cho toàn dân biết và đặc biệt nhắm tới các sĩ phu VN còn nặng lòng với tiền đồ dân tộc (Nhóm sĩ phu này hiện đang sống rải rác trên khắp Hoa Kỳ). Mà tác giả tập thơ Vô Ðề không ai khác hơn, người ấy chính là cụ Lý Ðông A.

Sau tổng thống Reagan, các tổng thống khác như Bush Sr (Cha), Bill Clinton, Bush Jr (Con) đều đi theo con đường của học thuyết Nhân Chủ. Người Mỹ có cái rất hay là: Họ không viết sách rườm rà theo kiểu Á Châu hay Âu Châu. Một vấn đề lớn được họ chia ra làm nhiều chủ đề nhỏ hơn để viết mạch lạc hơn, dễ hiểu hơn. Như thế tạo ảnh hưởng rộng lớn hơn, sâu rộng hơn trong quần chúng. Cụ thể mà nói, cuốn sách “Guns, Germs, and Steel” của tác giả Jared Diamond Giáo sư Tiến sĩ Sinh Lý Học của trường đại học UCLA Hoa Kỳ, và giáo sư Diamond đã đoạt giải văn chương cho tác phẩm này, tác phẩm này cũng là một tác phẩm bán chạy nhất của ông, (Jared Diamond, Professor of Physiology at the UCLA School of Medicine, is the author of the best selling and award-winner of the PULITZER PRIZE) và nội dung quyển “Guns, Germs, and Steel” này chẳng khác gì nhiều với các vấn đề mà tôi đã nêu ra trên làn sóng này trong 5 năm qua. Thế mà các vấn đề này thực ra cũng chỉ là mở rộng các khái niệm mà cụ Lý đã nói từ 60 năm trước mà thôi.

Nhân loại này phải đi trên con đường Nhân Chủ thôi!. Không thế lực nào cưỡng lại được. Dù là tôn giáo hoặc tông quyền Hồi giáo hay Trung cộng cũng không chống lại được.

V) Vấn Ðề VN:

Tình hình hiện nay rất cực kỳ nghiêm trọng. Tình hình càng nghiêm trọng bao nhiêu thì chúng ta càng sớm nhìn thấy sự tan rã của đảng CS VN gần kề bấy nhiêu. Và nhu cầu xây dựng lại đất nước VN thân yêu càng được đặt ra một cách cấp bách hơn bao giờ hết. Chúng ta xây dựng lại đất nước như thế nào?. Ta hãy tự hỏi: Liệu có công trình xây dựng lớn lao nào mà không có những nhà kiến trúc lừng danh đứng trông coi hay không?.

Việc xây dựng lại đất nước VN điêu tàn đổ nát về thể chất, băng hoại về mặt tinh thần, đạo đức, nên việc xây dựng phải quy mô và khó khăn hơn nhiều. Xây dựng một đất nước luôn bao gồm 2 phần: Tinh thần và Vật chất. Cũng như con người phải đi bằng 2 chân vậy. Một khi cái đầu đã hư hỏng, mục nát thì chẳng có việc gì làm tới nơi tới chốn được.

Những bài học lịch sử mà nhân loại đã trải qua thật đáng để chúng ta suy gẫm mà bài học tiêu biểu, quan trọng nhất là bài học về nước Mỹ. Giữa lý thuyết và thực tiễn của khoa học xã hội vẫn có những cách biệt nhất định. Sự bình đẳng và sự đồng đẳng thường ít giống nhau. Chả ai dám đem sự bình đẳng giữa đồng tiền và trí tuệ mà so sánh cả.

Người Mỹ đã sớm nhìn thấy các giới hạn của một xã hội dân chủ và ngay cả đối với xã hội Nhân chủ mà loài người đang tiến tới cũng thế thôi. Không lẽ cứ để các đảng “chính trị” tranh luận liên tu bất tận, thậm chí chém giết lẫn nhau thẳng tay nhằm thỏa mãn các tham vọng cá nhân hay đảng phái?. Ðiều này đã xảy với hầu hết các quốc gia Nam Mỹ, Âu châu trước thế chiến II và hầu khắp các nước Á châu, Phi châu. Hệ lụy tất yếu là quốc gia sẽ đắm chìm trong loạn lạc để cuối cùng dẫn đến một chế độ độc tài. Vết xe đổ từ Âu sang Á phải được nhìn nhận một cách đầy đủ và trọn vẹn. Ðể bổ sung cho các giới hạn đó, Hoa kỳ đã biết thiết lập hẳn nhiều cơ cấu khác nhau nằm ngoài phạm vi hiến pháp quy định đó là: “Ban Lãnh Ðạo Hoa kỳ”.

Nhiều người nghĩ rằng nước Mỹ được điều hành trong thực tế bởi một nhóm tài phiệt. Nghĩ như vậy là rất sai. Nước Mỹ mạnh vì họ biết tổ chức xã hội Hoa kỳ một cách rất hiện đại, năng động để có thể thực hiện được những viễn kiến của họ, thậm chí rất xa mà không vi phạm vào những nguyên tắc căn bản của hiến pháp.

Liệu chúng ta có thể xây dựng một đất nước VN với những con người lãnh đạo chỉ nhìn thấy trước mặt có 2, hay 3 năm không?. Viễn kiến 20 năm hay 50 năm cũng chưa đủ. Người Mỹ đã biết đặt trọng trách này lên vai những bậc Thạc Ðức Chính Thực là vậy. Ðể các vị này chỉ chuyên chăm lo cho các vấn đề của đất nước và nhân loại trong 100 năm hay lâu dài hơn nữa. Trong khi các chính phủ chỉ chăm lo các việc trong ngắn hạn theo quy định của hiến pháp.

Sức mạnh của Hoa kỳ xuất phát từ đây. Cho nên dù chính phủ có thay đổi, kế hoạch lâu dài đã được hoạch định vẫn thống nhất và liên tục.

Trở lại mối quan hệ giữa các Cụ VN và Ban Lãnh Ðạo Mỹ, mối quan hệ này đã được xây dựng trên nền tảng vững chắc, mà sợi dây nối kết chính là học thuyết Nhân Chủ do cụ Lý đề ra để đến khi tình hình thế giới chín mùi, chúng ta có thể bước vào giai đoạn xây dựng lại đất nước với một Ban Lãnh Ðạo VN đầy đủ uy tín quốc tế, có trí tuệ, đạo đức. Chúng ta đang có các bậc Thạc Ðức Chính Thực VN ngay trong lòng nước Mỹ và trong nước VN nữa.

Khi tình hình chín mùi, khi ngày vui vẻ vang của dân tộc đến, dân tộc ta đã có sẵn các bậc Thông Tuệ có thể sắp xếp các công chuyện hàng trăm năm cho đất nước. Có một sự thực mà ta cũng cần ghi nhận là: Thực tế có một đảng Mỹ, đảng Việt như vậy trong một Liên Ðảng Toàn Cầu nhằm hướng dẫn các dân tộc nhỏ yếu khác cùng tiến lên Nhân Chủ. Trách nhiệm của chúng ta trong tương lai không đơn giản chỉ là trong phạm vi nước VN mà thôi, mà còn liên hệ đến toàn vùng Ðông Nam Á. Chúng ta có trách nhiệm đóng góp vào việc tạo sự ổn định cho toàn vùng.

Cho nên, chúng ta có thể rút ngắn thời gian xây dựng đất nước bằng “thời kỳ dôi của lịch sử” như cụ Lý đã đề ra, chúng ta lấy lại thời gian quý báu đã mất bằng vào chính công sức của toàn dân mình là chủ yếu. Chúng ta có cố gắng thì bạn bè mới giúp chúng ta được.

Chúng tôi hiểu rằng việc lập một Ban Lãnh Ðạo VN là không đơn giản khi mà nhân dân ta còn đang bị phân hoá ở một mức độ nhất định. Nhưng có một điều rất đáng mừng là tình hình hiện nay cũng như giới trí thức VN đã chín mùi cho một giai đoạn huy hoàng mới.

Cụ Lý đã từng nói: “Trúc biểu kiến thái bình”. Tức là việc xây dựng đất nước nằm trong tay giới trí thức. Cụ cũng đã từng nói: Cơ hội đấy làm đi để hưởng thành quả.

Quả thực vận hội quý báu đang tới này cả ngàn năm mới có một lần. Tất cả chúng ta cần sát cánh nhau trong thời kỳ vui vẻ, huy hoàng của dân tộc. Ðể khôi phục lại niềm tự hào của Bách Việt và phát huy ánh sáng Bách Việt trên khắp vùng Ðông Nam Á, để cùng nhân loại sánh bước tiến lên trên con đường Nhân Chủ.



Ðược sự cho phép của các Cụ VN, tôi long trọng tuyên bố:

1) Ban Lãnh Ðạo VN thực tế đã hình thành bởi sự kết hợp các bậc Thạc Ðức Chính Thực VN ở trong và ngoài nước.

2) Ban Lãnh Ðạo VN chủ trương đi theo con đường Nhân Chủ mà cụ Lý đã đề ra. Ðây cũng là con đường mà Hoa kỳ đang theo đuổi trong việc ổn định tình hình thế giới, hầu đưa nhân loại tiến vào thời kỳ Nhân Chủ trên khắp toàn cầu (Xin nghe lại các băng nói chuyện của tôi).

3) Ban Lãnh Ðạo VN sẽ từng bước kết hợp với Ban Lãnh Ðạo các quốc gia khác nhằm hình thành một Ban Lãnh Ðạo Toàn Cầu.

4) Trước các mâu thuẫn vẫn còn tồn tại trong lòng xã hội VN, các cụ VN khẳng định rằng: “Sẽ không có sự trả thù dưới bất cứ hình thức nào, mọi người đều có cơ hội đóng góp vào việc chung của dân tộc”.

5) Hoa kỳ với tính cách là một người bạn chân thành, họ nhận trách nhiệm tinh thần với dân tộc VN và họ sẽ đóng góp rất xứng đáng về vật chất cũng như tinh thần vào công cuộc xây dựng lại VN trong tương lai.

6) Ban Lãnh Ðạo VN kêu gọi mọi chuyên viên kỹ thuật VN dù ở đâu, hãy tìm những phương cách tốt nhất để hợp nhất nhau lại một cách mau chóng trong kỷ luật, đạo đức, khoan hoà để đem các kỹ năng ấy về xây dựng lại VN khi tình hình cho phép.

7) Mọi người VN dù ở bất cứ đâu, dù trong cương vị nào, hãy ghi nhớ vào tâm trí 5 lời thề mà cụ Lý đã đề ra:

         Thề Giác biện chứng lớn.

         Thề Tu tính mệnh ta.

         Thề Cứu nòi giống Việt.

         Thề Giúp loài người yếu.

         Thề Cùng vũ trụ hoà.



         Trân trọng kính chào đồng bào Lê Văn Xương



ngày 25 tháng 7 năm 2004

- Phần trình bày.

Phần trình của tôi liên quan đến phần trình bày của ngày 4 tháng 7, tôi hiểu rằng một số quí vị có thắc mắc thì ngày thứ hai sau đó tôi nghĩ là anh Toàn đã giải thích thỏa đáng những thắc mắc đó tôi thấy tôi không cần phải trở lại.

Hôm nay tôi trình bày thêm một vài vấn đề cho rõ ràng hơn liên quan đến diễn biến trước và sau ngày July 4th (ngày Độc Lập) vì cái biến cố July 4th đó là một biến cố rất quan trọng, không phải đối với cộng đồng người Việt không thôi mà tác động đến toàn bộ tình hình Á Châu, làm cho nhiều quốc gia phải quan tâm theo dõi đặc biệt là Trung Quốc. Tôi cần nói thêm là VN và Đài Loan v..v.. tôi kể sơ về vài ba quốc gia đó thôi, tôi biết chắc chắn là nhiều quốc gia đã lắng nghe chương trình đó đến nơi đến chốn và phản ứng của họ như thế nào?. Đó là việc mà mỗi người trong chúng ta đều phải theo dõi thận trọng để quyết định thái độ của mình trước cái vận mệnh của dân tộc đang trong tình trạng như: chỉ mành treo chuông. Tôi xin nhấn mạnh với quí vị điều đó. Cho nên có những thắc mắc của quí vị, cá nhân thì quí vị tưởng là quan trọng lắm, nhưng thật ra so với những diễn biến của tình hình thế giới và những ảnh hưởng của bài phát biểu đó đối với nhiều quốc gia trong vùng, thì những thắc mắc của quí vị không thành những vấn đề lớn, tôi nghĩ phần trình bày của anh Toàn là đủ.

Trước hết, hôm nay tôi cần khẳng định với quí vị một điều: trước hết tôi không bao giờ dám giỡn với chính trị dù trong suy nghĩ, trong lời nói cũng như trong việc làm. Đó là điều tôi khẳng định với quí vị. Tôi không bao giờ dám giỡn với lịch sử dân tộc, không bao giờ tôi dám giỡn với lịch sử nhân loại, không bao giờ tôi dám giỡn với sinh mạng của con người, đó là điều xin quí vị lưu ý, cho nên, từng điều tôi nói lên ở đây đều được suy nghĩ rất đắn đo, rất cẩn trọng và những tin tức chúng tôi đưa ra thì phải là chắn chắn. Nếu những gì không chắc chắn thì anh Toàn cũng như tôi có bổn phận nói với quí vị: đó là điều chúng tôi được nghe nói nhưng chưa có gì chắc chắn, chưa có gì để confirm để cho quí yên lòng.

Phần trình bày chính của tôi ngày hôm nay, tôi xin thưa là những cái gì?. tại sao dẫn đến biến cố July 4th?. Tại sao tôi phải viết bài đó ra trước khi tôi đọc. Và phần thứ hai là sau bài July 4th đó thì phản ứng của các nơi làm sao?. Đặc biệt là phản ứng của người Mỹ như thế nào?. Việc đó nếu không nói ra thì có lẽ quí vị sẽ không biết. Nhưng; tôi thấy mình có trách nhiệm phải nói những việc đó cho quí vị để chúng ta hiểu vấn đề. Khi chúng ta càng hiểu vấn đề thì quyết tâm của chúng ta càng vững chải hơn và cái nhìn của chúng ta là cái nhìn về một hướng, chứ không là cái nhìn soi mói nhau để mà chửi bới nhau. Cái điều ước mong cuối cùng của mọi người trong chúng ta là muốn nhìn thấy một đất nước VN được độc lập, được phú cường, xây dựng đến nới đến chốn.

Phần thứ ba, tôi sẽ tổng kết lại một số tình hình tôi đã có dịp thưa với quí vị hôm July 4th. Trước hết là tại sao có việc xảy ra bài viết, tôi nói chuyện rất là quan trọng July 4th?. Cũng như quí vị đã biết: khi tôi ở trong nước thì cái suy nghĩ của tôi dứt khoát một điều là: Sau khi đánh xong Đức thì Hoa Kỳ phải đập tan Liên xô. “Chủ Nghĩa Đế Quốc Liên Xô”. Khi Đế Quốc Liên Xô tan rã rồi thì Đế Quốc Liên Xô đó (nước Nga) vẫn cần có thời gian để thích nghi với thế giới mới, thích nghi với tình huống mới. Và Hoa Kỳ cũng cần thời gian để hồi phục sau một thời gian dài chiến tranh. Cho nên tôi không hy vọng gì nhiều ở trong thời gian sau khi Liên Xô tan rã, là khoản thời gian suốt năm 1990 cho đến năm 2000. Đó là điều nằm trong suy tính của tôi liên quan đến tình hình thế giới. Nên khi ra hải ngoại này, mặc dù khi còn ở trong nước tôi đã biết rằng khi tình hình chưa có diễn biến, thì ngưòi Mỹ sẽ để cho các thế lực bên ngoài thí dụ như là Trung Quốc, thí dụ như Hà Nội tự do thao túng cộng đồng VN, cũng như cộng đồng người Hoa. Khi đánh giá như vậy, tôi hiểu một điều rất rõ là tinh thần người Việt hải ngoại nói chung là thấp. Nhận định này đã hình thành trước khi tôi lên máy bay đến Mỹ vào cuối năm 1992. Khi tôi qua đây, thì công việc tôi vẫn muốn tìm hiểu thêm thái độ của người Mỹ đối với VN như thế nào?. Thái độ người Mỹ đối với thế giới ra sao?. Người Mỹ có thể làm những công việc giống như người Mỹ đã từng làm trong cuộc chiến tranh lạnh hay không? và người Mỹ có nhận lấy trách nhiệm đối với việc ổn định an ninh thế giới hay không? để có thể đưa nhân loại tiến lên thời kỳ hòa bình hay không?. Trước những câu hỏi đó, thành thực thưa với quí vị: cách đây 5 năm khi anh Toàn đề nghị tôi phát biểu trên làn sóng này, tôi đã đi ngay vào vấn đề mấu chốt đó là vấn đề chiến lược. Một vấn đề mà chưa một ai dám nói đến. Khi tôi đi con cờ đó là tôi đã cân nhắc rất nhiều, tôi đã có 6 năm để tôi cân nhắc con cờ đó, tôi biết rằng một lúc nào tôi phải nói chuyện đó. Tôi nói chuyện đó, thật ra, tôi đem cả sinh mệnh mình ra để đi một con cờ. Tôi nói như thế để cho quí vị thấy rằng những người như chúng tôi khi nói một việc, hay khi làm công việc gì đó, thì chúng tôi làm với tất cả tinh thần trách nhiệm của chúng tôi làm. Chúng tôi ý thức được rất rõ việc phải làm cho tương lai dân tộc mà chúng tôi hy sinh. Bây giờ chúng tôi không nói chuyện đó với tính cách là kể công, vì không có gì là kể công trong công việc này. Đương nhiên, phần trình bày của tôi ngay trong buổi phát thanh đầu tiên, cũng đã gây ra một chấn động rồi, nhưng dù sau những chấn động chỉ có người trong cuộc mới biết. Anh Toàn là người hiểu rõ việc đó. Có lẽ anh Toàn cũng không cần phải nhắc lại, và bản thân tôi, tôi cũng hiểu rõ chấn động đó là như thế nào.

Mục đích của tôi, tôi chỉ muốn tìm hiểu thực sự Ban Lãnh Đạo VN có thực sự được hình thành ở Mỹ hay không?. Nếu có một ban lãnh đạo đó thì những chuyện tranh chấp trong nội bộ cộng đồng ở nơi này, ở chổ kia đó chỉ là những vấn đề phụ, phù phiếm bên ngoài không đáng, không phải là những mối quan tâm chính của tôi, và những vấn đề đó sẽ được giải quyết một cách dễ dàng mau chóng bất cứ lúc nào khi tình hình chín mùi. Đó là nhận định của tôi. Lẽ đương nhiên trong thời gian đó dẫn tôi đến mối quan hệ mới, dẫn tôi đến sự quen biết mới, và có nhiều chuyên viên của bên ban lãnh đạo cũng có gặp tôi và qua những sự gặp gỡ này trên tinh thần kính trọng bình đẳng để nói chuyện, để bàn luận. Thật ra mà nói: trong 5 năm qua chúng tôi đã gặp nhau rất nhiều lần. Chúng tôi bàn nhau những vấn đề thuộc hệ phạm vi chính sự thôi, thuộc về phạm vi cao cấp của chính trị thôi, chúng tôi có bàn về những vấn đề chiến lược, chúng tôi bàn về những vấn đề liên quan đến tương lai của thế giới, cách thức mà thế giới sẽ đi. Tất cả những điều đó, mỗi bước tiến trong mối quan hệ thì ba tuần một lần hoặc hai tuần một lần tôi có dịp trình bày những suy nghĩ của tôi cách này hay cách kia trên làn sóng này để quí vị hiểu được các diễn biến đó. Tuy nhiên tôi hiểu rằng số người có thể hiểu được vấn đề tôi nói trên làn sóng này không có nhiều, bởi vì thường thường tôi chỉ nói rầt là ngắn gọn và người khác có thể phải lại nghe nhiều lần thậm ý rất khó mà có thể hiểu đưọc thâm ý khi tôi đó là cái gì. Có một điều tôi rất thích thú là những chuyên viên trong Ban Lãnh Đạo VN cũng như trong Ban Lãnh Đạo Mỹ mà tôi có dịp gặp, họ là những con người rất tự tin, họ là những người rất am tường về Đông Phương. Tôi nói ngay cả những người Mỹ họ nói tiếng Việt rất giỏi, họ rất am tường về Dịch Lý, họ rất am tường về Phong Thủy. Có một điều làm cho tôi rất ngạc nhiên là mấy ông đó cũng cở tuổi tôi, gần tuổi tôi cả rồi lại rất hiểu về Cụ Lý Đông A. lại rất hiểu về cuốn Đạo Trường Ngâm hay là Huyết Hoa của ông Cụ Lý Đông A. Đó là điều làm cho tôi cảm thấy rất thích thú và khi có dịp thì tôi thỉnh thoảng nhắc lại chuyện đó cho đồng bào nghe. Vì đó là kinh nghiệm cá nhân của tôi, mà tôi confirm cái chuyện đó rõ ràng, đó không phải là chuyện tôi thế này thế nọ. Chính trong thời gian đó, mặc dù trước năm 1970 khi còn ở VN tôi đã được nghe nói về Cụ Lý Đông A, nhưng tôi không có dịp để hiểu đến nơi đến chốn những sự hoạt động hay những suy nghĩ của Cụ Lý. Mãi đến khi qua đây, tức là thời gian năm năm sau này tôi mới được giải thích tường tận hơn, có một sự hiểu biết sâu hơn về những vấn đề Cụ Lý đã nêu ra. Cho nên khi sự bàn luận đi đến chổ là chúng tôi phải làm cái gì đó, để đặt ra cái nền tảng cho việc khôi phục lại đất nước VN dưới chế độ CS hiện nay đang bị giặc Tàu thao túng từ địa phương lên đến trung ương. Trong thực tế mà nói thì đất nước đã trở thành một chư hầu của Tàu, đó là một thực tế không thể phủ nhận được. Cho nên, khi quí vị nói với tôi về những vấn đề bán đất, dâng đất, dâng biển mà tôi vẫn không nói tới. Tôi không nói tới là vì khi chúng ta nói đến chuyện đó là chúng ta nói vấn đề bề ngoài, chúng ta chưa đi vào tận cốt lõi của vấn đề. Khi vấn đề được đặt ra đối với những người như chúng tôi thì phải đặt ra một cách rốt ráo, toàn diện và triệt để thì lúc đó chúng tôi mới đặt ra. Cho nên, sau khi những diễn biến tình hình cho chúng ta thấy là cần phải có một hành động gì đó nói lên với đồng bào một cách cụ thể, nói lên với thế giới một cách cụ thể về những gì mà nước VN trong tương lai muốn làm. Điều đó dẫn đến bài phát biểu của tôi hôm July 4. Nhưng, chúng tôi cũng rất kỹ lưỡng khi viết bài đó, khi nói bài đó vì chúng tôi đã chắc chắn rằng 7 chiếc hàng không mẫu hạm đã đến eo biển Trung Quốc, hoặc là đã trong phạm vi oanh tạc Trung Quốc. Điều thứ hai, chúng tôi chỉ nêu ra vấn đề đó khi nước Nhật đã tự nguyện đặt cả nước Nhật để cho quân Mỹ xử dụng nếu có chiến tranh. Tức là quốc hội Nhật đã thông qua 7 điểm trong chính sách mà anh Toàn có nói. Chúng tôi chỉ nói với những điều đó khi chính quyền của Iraq đã được ngưòi Mỹ bàn giao cho chính quyền lâm thời. Tức là tình hình đúng lúc thì chúng tôi mới nói, không đúng lúc chúng tôi không nói. Vì cách đó là chuyện đã xảy ra trước biến cố July 4th mà quí vị đã được biết. Ở trong chuyện này, chúng tôi cũng cân nhắc rất kỹ. Khi nguời Mỹ chơi ván bài lật ngửa với Trung Quốc thì chúng tôi cũng phải chơi ván bài lật ngửa với Trung Quốc. Chúng ta là những ngưòi VN hải ngoại, chúng ta cũng chơi ván bài lật ngửa với Trung Quốc.

Tôi hiểu một điều, đa số người Việt chúng ta ở hải ngoại cũng như ngưòi Việt ở trong nước không nhìn vấn đề một cách thấu triệt. Trong thời gian qua khi những phong trào hòa hợp hòa giải dân tộc do ông A, ông B, ông C, ông D nói tới, rồi do những vấn đề mâu thuẫn trong cộng đồng, phong trào này, phong trào kia đã làm cho người Việt chúng ta ở hải ngoại không biết xác định rõ ai là kẻ thù đích thực của dân tộc. Chúng ta cứ tưởng rằng người bạn của ta là thù, chúng ta cứ tưởng kẻ thù là bạn. Đó là vấn đề! Tình trạng đó đã xảy ra ở trong cộng đồng người Việt trong 29 năm qua, chúng tôi nhân dịp này muốn minh định rõ với đồng bào biết để một lần nữa để đồng bào ở trong nước cũng như hải ngoại cần phải kiên định và xác định rõ lập trường: ai là bạn, ai là thù. Dứt khoát! Đây là lúc không có thể lập lờ đánh lận con đen. Cho nên, nếu có một ai đó đổ cho tôi hòa hợp hòa giải thì quí vị đó rất là lầm. Một sự sai lầm vĩ đại!. Nếu không nói là đó là lời nói của những người thân cộng. Từ xưa đến nay chưa bao giờ tôi nói chuyện đó. Và tôi hiểu một cách rất rõ những âm mưu nhằm thành lập những lãnh tụ giả hiệu để đánh lạc hướng mối quan tâm của người Việt mình và đồng thời phóng ra phong trào hòa hợp hòa giải để làm chi vậy?. Để cho tâm tư của người Việt bị phân hóa, khi bị phân tán thì không tập trung vào kẻ thù chính của chúng ta được. Kẻ thù đó là Trung Quốc!, từ trước đến nay tôi khẳng định điều đó một cách rõ ràng, minh bạch.

Tôi xin thưa với quí vị về một vài phản ứng sau ngày July 4th.

Đối với nhiều vị thì chuyện July 4th, quí vị đã đọc bản văn, tôi nghĩ là thực sự những người hiểu bản văn đó không có nhiều. Đó là sự thật!, thậm chí ngay cả giới trí thức. Bởi vì trong đó chứa đựng nhiều vấn đề, nhiều định nghĩa rất phức tạp. Khi các Ban tham mưu đã làm việc thì có những vấn đề được phát sinh ngay. Như tôi đã thưa với quí vị, người Mỹ không nói nhiều, người Mỹ không nói dài dòng, người Mỹ phát định sự ủng hộ đối với bài nói chuyện hay bảng tuyên bố hôm July 4th một cách cụ thể và rõ ràng từng điểm một. Những điểm đó có thể quí vị biết, nhưng quí vị không biết rằng: Ai làm những chuyện đó? Khi họ làm những chuyện đó ra làm sao? Tôi xin kể một thí dụ: khi tôi nói về vấn đề Ban lãnh đạo Mỹ, có nhiều người nghĩ rằng đó là nhóm tài phiệt lãnh đạo thì người Mỹ trả lời ngay lập tức. Chắc quí vị còn biêt vụ Martha (Chủ tịch công ty về thực phẩm) trước khi tôi nói về July 4th, những gì xuất hiện trên Tivi, tưởng rằng Martha sẽ được tha bổng, nhưng không đầy 10 ngày sau Martha bị kết án. Đó là câu trả lời rất rõ của Mỹ đối với bài nói chuyện của tôi ngày July 4th. Không đầy 10 ngày sau, chủ tịch Eron ra đầu thú và tôi tin chắc rằng Eron sẽ bị xử mau chóng chứ không có tình trạng kéo dài. Đó là một điểm liên quan đến sự đáp ứng của phía Mỹ với lời phát biểu ngày July 4th. Điều nữa, từng điểm một tôi phải nhấn mạnh. Không ai cấm! không ai bắt ông Thủ Tướng Do Thái Ariel Sharon tuyên bố rằng: “người Do Thái nên dời khỏi nước Pháp”. Không ai bắt ông Ariel Sharon!. Ông Ariel Sharon nói một câu đó rồi cuối cùng Bộ Ngoại Giao Pháp lên tiếng phản đối ông Ariel Sharon. Người dân Do Thái có về hay không đó là chuyện khác. Nhưng ông Ariel Sharon đã lên tiếng. Tôi đưa ra trường hợp này để quí vị hiểu rằng cũng có những sự minh chứng cụ thể đối với Ban Lãnh Đạo Mỹ về bản tuyên bố ngày July 4th. Chưa hết, nhiều chuyện lắm.

Tôi xin kể thêm, mười ngày sau khi July 4th thì ông Brezinski, người gốc Ba-lan, Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Jimmy Carter phát biểu trên đài phát thanh RFA bằng tiếng Pháp, ông ta nói: “nước Pháp muốn xử dụng Âu Châu, phần còn lại của Âu Châu như là một đối trọng với Mỹ, nhưng nước Pháp lỗi thời rồi. Trong hơn hai mươi năm tới, nước Mỹ vẫn là siêu cường khối số một trên thế giới, vẫn đóng vai lãnh đạo thế giới.”

Đây là một sự trả lời của ông Brezinski, nhưng ai nói với ông Brezinski nói chuyện đó trên đài phát thanh RFA?. Nó cũng là sự việc! Nếu tôi không nói ra quí vị cũng sẽ không biết.

Cũng vẫn chưa hết. Ông Puttin, mặc dù thỏa thuận gởi quân đội đến Iraq và Afghanistan của ông Puttin có khi bà Rice đến Moscow, nhưng đâu có ai đòi hỏi hay bắt ông Puttin, yêu cầu ông Puttin phát biểu lời nói đó sớm như vậy? Bây giờ là tháng 7, nhưng đến tháng 10 ông Puttin mới gởi quân đội đến Iraq, và đến Afghanistan. Ông tuyên bố gởi 40,000 quân. Đồng thời ông cách chức luôn ông Tham Mưu Trưởng của quân đội Nga. Đây cũng là một sự sắp xếp khác nữa. Một việc là ông chỉ cần tuyên bố trước thôi mang ý nghĩa khác, và đến tháng 9 hay đầu tháng 10 ông Puttin tuyên bố câu đó cũng không sao, nhưng tháng 7 này ông Puttin đã tuyên bố. Tôi nói như thế để quí vị thấy rằng những việc mặc dù tôi biết quí vị “Bụt nhà không thiêng”. Đối với quí vị, đại đa số quí vị hiện tại phải có ông Mỹ mũi lõ mắt xanh nói thì quí vị mới tin. Còn quí vị không tưởng tượng rằng một người như tôi khi nói ra thì quí vị nói “thằng này nói chuyện bá láp, chuyện trời đất”. Nhưng sự thật những chuyện tôi kể ra thì quí vị thấy rằng: cái biến cố July 4th đối với chúng ta là một chuyện rất lớn. “Đó là một lời tuyên chiến đối với chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh”.

Nhưng chuyện đó vần chưa hết, tôi xin kể ra thêm một chuyện nữa. Nếu quí vị thấy ông giáo sư Stephen Hawkin. Ông này là một khoa học gia lỗi lạc về thiên văn. ông đưa ra thuyết về Black hole 30 năm trước. Và mọi chuyện cũng chỉ xảy ra sau ngày July 4th, bây giờ ông bảo Black hole mà ông đưa ra 30 năm trước sai rồi. Lúc đó ông bảo là: Tất cả Black hole thu hút tất cả những tinh thể khác, khi nó va vào nó biến luôn. Bây giờ ông bào rằng sai. Cái Black hole thu hút vô và sinh ra một cái mới. Bây giờ lý thuyết của ông là nó sinh ra một cái mới. Khi nói nó sinh ra một cái mới đó làm cho tôi nhớ lại câu nói của cụ Lý Đông A ngay trong cuốn Đạo Trường Ngâm, ngay trong câu đầu của bài Đạo Trường Ngâm:

* - Một vòng không đáy, đáy sinh người

Như tôi đã trình bày cùng quí vị, ông Giáo sư Hawkin có thể để một tháng tới hay hai tháng tới ông nói cũng được. Nhưng, cũng chỉ khoảng 10 ngày sau đó, không đầy 10 ngày, khoản chừng một tuần lễ sau ông Hawkin nói chuyện đó ra. Nói như thế để cho quí vị vững lòng tin rằng những gì tôi nói, đã nói ra là có những bằng chứng, có những chứng từ cụ thể rõ ràng chứ không phải là những lời nói suông. Cho nên những ai nghĩ rằng tôi nói như vậy là tôi lập ra một cái tổ chức này, tổ chức kia là rất sai. Đã nhiều lần tôi thưa với quí vị là tôi không có một tổ chức gì hết. Tất cả trên làn sóng này chỉ có anh Toàn với tôi. Sự tình cờ của lịch sử và ở đây khi phần trí tuệ gặp nhau thì chúng tôi có được những information, chúng tôi có được những sự hiểu biết và chúng tôi có bổn phận phải nói với đồng bào và chúng ta không có gì để mất. Cho nên tôi nói thẳng ra với đồng bào. Như người khác, thì người ta đã giữ trong lòng để ngưòi ta làm cái “thủ” cho mình, nhưng đối với tôi: không!. Tôi đã nói với đồng bào về những chuyện đã xãy ra và những chuyện sắp xảy ra.

Hai vấn đề liên quan đến bài phát biểu ngày July 4th, trước kia anh Toàn chưa nói tới thì ngày hôm nay tôi nói chi tiết vào.

Bây giờ tôi phát biểu thêm phần thứ ba là phần phản ứng tình hình. Tin mới nhất cho thấy là Trung Quốc tiếp tục phát triển cuộc tập trận 212. Trước đây, cũng trong tháng 7 này thì cuộc tập trận 212, cũng mang tên 212 chỉ xảy ra ở Đặc Khu Phúc Kiến đối diện với Đài Loan. Tin mới nhất cho thấy Trung Quốc lần này tập trận trên một qui mô lớn hơn hẳn ở vùng biển phía Đông Nam tức là Quảng Đông, Hải Nam áp sát Vịnh Bắc Việt liên quan đến Hoàng Sa, cuộc tập trận này bao gồm Không quân, Hải quân và Lục quân. Quân số tham dự là bao nhiêu tôi không rõ, nhưng có thể lên đến từ 500,000 đến 1 triệu người. Điều thứ hai chúng ta cần phải lưu ý là cho đến giờ phút này thì cuộc tập trận, tức là Hiệp 2 của cuộc tập trận 212 này, tạm gọi là Hiệp 2. Hiệp l liên quan đến Phúc Kiến, hiệp 2 liên quan đến một khu vực rộng lớn hơn vùng Đông Nam của Trung Quốc và trên đất liền. Nói trên đất liền thì chúng ta phải hiểu ngay là Trung Quốc muốn gì ở VN rồi. Cuộc tập trận này để ngăn chận người Mỹ, để cho người Mỹ thấy là Trung Quốc sẵn sàng đương đầu với người Mỹ. Nhưng đồng thời đó cũng là một dấu hiệu rất rõ để gây áp lực với những người CS VN ở trong nước, là Trung Quốc có thể ra tay tràn ngập VN bất cứ lúc nào.

Đây là những vấn đề trong nhiều lần trên làn sóng này tôi đã thưa với quí vị: khi nói đến Trung Quốc là nói đến VN - khi nói đến VN là nói đến Trung Quốc. Thế cho nên trong cái thế như Trung Quốc hiện nay: Hải - Không quân Trung Quốc chỉ đủ sức đương đầu với một hàng không mẫu hạm của Mỹ thôi và theo ước tính của họ thì phải 20 năm nữa thì họ mới đủ sức để đương đầu với 6, hoặc 7 hàng không mẫu hạm. Nhưng quí vị nên nhớ rằng người Mỹ sẽ không ngồi yên trong vòng 20 năm tới để cho Trung Quốc có thể đương đầu với 6, hoặc 7 hàng không mẫu hạm. Cho nên cách biệt giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ vẫn ngày càng cách biệt hơn. Vậy bây giờ Trung Quốc hành động như thế nào? khi ông Puttin đồng ý gởi 40,000 quân qua Iraq và Afghanistan thì điều gì xảy ra? Trung Quốc phải hiểu rằng: mặt trận phía Bắc đối với Nga là có thể bể bất cứ lúc nào. Và ngay cả Mông Cổ là một quốc gia đã gởi hơn 100 quân đến Iraq. Điều thứ 2, với vấn đề Triều Tiên, Trung Quốc sẽ không hành động được Triều Tiên. Bởi vì đất địa Triều Tiên không phải là đất địa để cho quân Trung Quốc có thể hành động giống như là năm 1950 trong chiến tranh Triều Tiên kỳ trước, Trung Quốc cũng không thể tấn công Đài Loan, vì khi tấn công Đài Loan đạo quân nhảy vô Đài Loan sẽ bị tiêu diệt ngay, sẽ không giải quyết được vấn đề gì hết. Cho nên Trung Quốc chỉ còn có một con đường duy nhất là tràn vào Đông Nam Á. Bởi vì hiện nay, sự hiện diện của quân đội Mỹ ở khắp Á Châu như thế, thì Trung Quốc phải hiểu rằng: ngưòi Nga đã đổi hướng rồi, nước Nhật trong tình trạng sẳn sàng chiến tranh, Đài loan cũng vậy. Trung Quốc dù có hoà hoãn với Ấn Độ cũng không được bao lâu, vì Trung Quốc vẫn không hiểu Ấn Độ sẽ hành xử như thế nào khi mà tôi thấy là Trung Quốc đi vào một thế tan rã. Cho nên con đường duy nhất mà Trung Quốc tràn vào VN. Khi nói đến VN chúng ta hiểu rằng chính họ Giang cũng đã lên tiếng trong hội ngày Quân Ủy nói rằng quân đội Trung Quốc phải sẵn sàng đối đầu với một cuộc chiến tranh có giới hạn với Mỹ. Đối với họ Giang cuộc chiến tranh có giới hạn là gì? Chắn hẳn, Trung Quốc không bao giờ đem thế yếu của mình ra để đụng cái thế mạnh của Mỹ là Hải - Lục - Không quân và hỏa tiển. Chắc hẳn Trung Quốc phải nghĩ đến một cái thế yếu của Mỹ và cái thế mạnh của Trung Quốc. Đối đầu một cái thế yếu của Mỹ, cái thế mạnh của Trung Quốc chính là tràn vào Đông Dương, chính là tràn vào Đông Nam Á. Mặt trận đó hiện nay được coi là mặt trận tương đối Trung Quốc có cái thế.

Câu hỏi là chừng nào Trung Quốc hành động?

Thì với những diễn biến của tình hình hiện nay, chúng tôi nhìn thấy Hoa Kỳ - Trung Quốc đã chơi ván bài lật ngữa, cho nên biến cố July 4th tôi cũng bạch hóa ra đây luôn, tôi cũng chơi ván bài lật ngữa với Trung Quốc! để xem Trung Quốc có dám nhảy vô VN hay không? tất cả những việc này Trung Quốc nghĩ rằng nếu Trung Quốc nhảy vô VN thì kinh nghiệm của chiến tranh VN trước đây, cũng như kinh nghiệm của cuộc chiến tranh ở Triều Tiên trước đây Hoa Kỳ sẽ không dám nhảy vô và Trung Quốc hy vọng sẽ có những điều kiện để thương thuyết với Mỹ và để mua thời gian, để có thể chờ cho đến 20 năm nữa thống nhất Đài Loan, khi họ thống nhất Đài Loan thì lúc đó VN chỉ là một tỉnh của Trung Quốc thôi. Vấn đề này không đơn giản như Trung Quốc nghĩ, nhưng nó không đơn giản như những người VN hải ngoại nghĩ. Nhiều người VN nghĩ rằng: ở đây đã bị ru ngủ trong 30 năm qua về chiêu bài hòa hợp hòa giải, đã bị ru ngủ, đã bị đánh lạc hướng trong 30 năm qua về những vấn đề của trong nước. Bây giờ là lúc mọi ngưòi đều phải quyết định, khẳng định lập trường của mình là cần nhất thiết phải đứng hẳn một chiến tuyến để chống lại kẻ thù Bắc Phương. Tôi hiểu rằng những diễn biến mới đây ở Hà Nội thí dụ như xét nhà của ông Lê Hồng Hà để tìm các tài liệu của ông tướng Nam Khánh. Ông ấy viết, ông ấy tố Tổng Cục 2. Chuyện đó anh Toàn có nói, thì chuyện đó không có đơn giản chỉ trong vấn đề tranh chấp Tổng Cục 2 không thôi. Thật ra, đó là một tín hiệu mà Hà Nội muốn gởi cho Mỹ: Đây! chúng tôi này! không có ông Xương, ông Lý Đông A nào hết! Chỉ có chúng tôi mới làm được việc thôi! Nhưng mà, như quí vị đã biết chuyện không đơn giản. Người Mỹ nói rất rõ: Người Mỹ tìm bạn để kết thân, để giao du chớ không phải người Mỹ tìm người thiếu trí tuệ. Việc này đã xảy ra hồi năm 1977. Quí vị cũng nên nhớ thời đó ông Lê Duẫn còn và ông Lê Đức Thọ còn làm Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng, thì ông Trần Xuân Bách, ông Hoàng Bích Sơn đã từng gặp một người Mỹ rất là cao cấp tại Malaysia rồi. Và sự đánh giá của những người Mỹ này là: “Hà Nội không có thống nhất chỉ đạo là điểm thứ 1, điểm thứ 2 là trí tuệ thấp” cho nên họ không nói chuyện. Tôi nói câu này ra chắc hẳn những người nào đã có một thời dính líu về những vấn đề chính trị Hà Nội đã biết chuyện đó. Cho nên đối với người Mỹ bằng mọi giá họ phải tiến tới, họ phải dẫn dắt nhân loại này tiến đến một nền “Nhân Chủ Pháp Trị” và những trở ngại của Trung Quốc là những điều Cụ Lý đã nhìn thấy rất sớm, đã nhìn thấy rất lâu rồi. Khi 60 năm trước ông đã nói rằng: kẻ thù của Mỹ là Đức, là Nga, là Trung Quốc. Cho nên ngày hôm nay cuộc đụng độ giữa Mỹ với Trung Quốc là chắc chắn không thể tránh. Mỗi người trong chúng ta cần phải tỉnh táo để đừng bao giờ rơi vào bẫy kẻ thù giăng ra, cái bẫy này tinh vi lắm. Tôi lấy ví dụ: có thể Trung Quốc có thể mời ông A, ông B, ông C đến Bắc Kinh. Ông A, ông B, ông C theo lẽ thường các ông bảo là các ông làm như vậy là các ông giúp cho đất nước để tránh những thảm họa, và Trung Quốc có thể sẽ giải thích như thế. Nhưng mà anh tránh cái thảm họa nho nhỏ ngày hôm nay để rồi anh mất nước, thì thảm họa nào lớn hơn thảm họa nào? Tôi muốn nhấn mạnh điều đó đối với những ai hiện đang được Bắc Kinh tiếp xúc để mà nói chuyện.

Không nhất thiết anh cứ mặc màu áo quốc gia thì anh là người quốc gia! điều này được khẳng định rõ. Cũng không nhất thiết anh đã từng mặc màu áo CS anh vẫn tiếp tục là những người CS mà anh không phải là những ngươi quốc gia. Chỉ một giây phút đó thôi. Mỗi người trãi qua một thời điểm đó thôi mà quyết định sai là đã đứng về phía kẻ thù. Một quyết đình đúng là anh đứng về phía dân tộc. Chúng ta cần phải nhấn mạnh một điều: vận mệnh đất nước đang trong tình trạng chỉ mành treo chuông, chỉ một sơ xuất chút xíu thôi hàng triệu người lính Tàu sẽ tràn qua VN và số người chết không phải là nhỏ. Nếu ngày hôm nay mỗi người trong chúng ta không khẳng định lập trường của mình, đứng hẳn về một phía để nhận ra nhau, để nhìn về một hướng. Chứ không phải là nhận ra nhau để tìm cái xấu của nhau mà chửi nhau. Chúng ta cần phải xác định những việc đó. Nếu chúng ta có đứng hẳn về một chiến tuyến, chúng ta đứng hẳn về một cái trận doanh để đóng góp công sức của mình vào việc làm tan rã chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh, thì chúng ta vĩnh viễn không thể đưa dân tộc thoát ra khỏi cảnh lầm than được. Chúng ta cần phải nhớ rằng hơn 2000 năm qua tổ tiên chúng ta đã cố gắng hết sức mình nhưng tất cả những cố gắng của tổ tiên chúng ta vào những thời điểm đó vẫn chưa đạt được những mục đích tối hậu là khôi phục lại trọn vẹn niềm tự hào Bách Việt.

Đây là thời điểm lịch sử ngàn năm một lần, ngàn năm mới xảy ra. Những ai bỏ lở cơ hội lịch sử này thì vĩnh viễn về sau này sẽ có tội với dân tộc. Đó là điều tôi muốn nhấn mạnh đối với những ai còn mơ ngủ, vẫn chưa xác định rõ lập trường dân tộc và cứ nghĩ rằng: mình cứ là người quốc gia, ngày xưa mình là một người quan. một ông lệnh VNCH thì đương nhiên mình là người quốc gia mà quên đi hẳn việc kẻ thù, chúng ta không bao giờ hợp tác với kẻ thù truyền kiếp của dân tộc được. Còn những cuộc nói chuyện nó là những việc khác. Chúng ta sẵn sàng mở ra những cơ hội nói chuyện đối với Trung Quốc, nhưng một cách hợp tác là điều rất cẩn trọng, tôi muốn nhấn mạnh là chỉ một giây một phút thôi anh có thể đứng vào phía kẻ thù của dân tộc và anh sẽ bị lịch sử đào thải, sau này anh sẽ là những Lê Chiêu Thống, là những kẻ phản quốc. Đối với những trí thức VN tôi cần nhấn mạnh một điều là tôi hiểu các vị trí thức lắm, các vị vẫn còn sống nhiều với sách vở, giấy tờ luôn luôn phải có ông A, ông B, ông mắt xanh mũi lõ nói ra thì quí vị mới tin. Có một điều làm cho chúng ta cảm thấy tủi hổ, chúng ta không có ai nói ai nghe được hết, cứ cái gì cũng có mắt xanh mũi lõ, ông ấy bảo thì mới làm, có các ông đó nói vô thì tự nhiên xếp hàng. Cái thái độ đó rất là thái độ nghịch lý. Mỗi người của chúng ta cần phải tỉnh táo hơn! Cần phải ngẩng cao đầu lên để nhìn vào thế giới, biết hướng đi của nhân loại để mà thấy được việc mình phải làm. Nếu chúng ta không thấy chuyện đó thì nguy hiểm rất lớn đối với dân tộc.

Bây giờ câu hỏi được đặt ra: nếu Trung Quốc tràn vào VN thì tràn như thế nào? quí vị nên nhớ rằng cửa khẩu Lào Cai đã được mở rộng, sự mở rộng cửa khẩu này có nghĩa là gì?. Sự mở rộng cửa khẩu này mở rộng con đường để cho Lục quân Trung Quốc có thể vào VN một cách thuận lợi hơn, cho nên, hàng triệu người Trung Quốc sẽ tràn vào VN và tới lúc nào đó họ cũng tràn vào cả Miện Điện luôn. Vì tôi hiểu rằng họ chỉ có cách duy nhất là họ làm như vậy thì họ đạt được kế để nói chuyện với Mỹ thôi. Còn phản ứng của người Mỹ như thế nào thì đó là vấn đề của người Mỹ, không phải là vấn đề của chúng ta, chúng ta cần phải lưu ý chuyện đó. Tất cả những vấn đề hiện nay đang diễn biến từng ngày, từng giờ làm cho chúng ta mỗi người phải tập trung nhìn cho thật là rõ để mà quyết định hướng đi của mình.

Để kết thúc bài này, tôi xin thưa với quí vị một câu của Cụ Trạng Trình rất phù hợp với tình hình ngày hôm nay:

Thủy binh cờ bướm vầng hồng

Bộ binh tấp nập như ong kéo vào

khi nói đến câu đó liên hệ đến tình hình hiện nay, ta sẽ thấy Thủy binh cờ bướm vầng hồng là hạm đội Mỹ đang hờm sẵn ngoài khơi. Bây giờ Bộ binh tấp nập đây không lẽ là ông Mỹ, ông Mỹ đâu có bộ binh nhiều để tấp nập thì ông nhảy vô đâu, thì chúng ta phải hiểu ngay: đây là Trung Quốc. Cho nên chúng ta dựa vào sự phân tích mang tính chiến lược, và chúng ta dựa vào rất nhiều yếu tố để chúng ta đi tới một kết luận rằng: sự hiện diện của Trung Quốc ở VN là một điều chắc chắn vào một tương lai không xa. Nhưng điều đó sẽ dẫn đến một sự thay đổi toàn diện đối với cục diện Á Châu, khi Trung Quốc bước vào những giai đoạn xáo trộn. Quí vị nên nhớ là Trung Quốc có kẻ thù bốn mặt tấn công. Mặt nào cũng có kẻ thù hết và bên trong nội bộ Trung Quốc thì đầy giẫy những mâu thuẫn, đầy giẫy những mầm móng để phân rã. Nên khi Trung Quốc phân rã thì lúc đó thì VN ta mới có cơ hội. Chừng nào Trung Quốc còn ngồi đó, còn chi phối tình hình thì chúng ta đừng có hy vọng ngóc lên. Chúng ta vào giờ phút này của lịch sử, giờ phút nghiêm trọng của lịch sử. Tôi kêu gọi mỗi người trong chúng ta phải xác định rõ lập trường, đứng hẳn về phía dân tộc, những người CS cũng vậy!. Những người CS cũng phải biết rõ trách nhiệm của mình, phải làm thế nào để tiết kiệm tối đa máu xương cho nhân dân. Cục diện của thế giới chúng ta không can thiệp vô được nhiều. Những diễn biến đó chắc chắn phải xảy ra nhưng chúng ta cần phải khẳng định điều lập trường dân tộc để sau này chúng ta có thể bắt tay vào việc xây dựng lại đất nước đến nơi đến chốn. Xin hết.



Lê Văn Xương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét