Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2011

Dấu ấn văn hóa Việt trong Kinh thi

Hà Văn Thùy

Kinh Thi là tuyển tập những bài dân ca và ca dao ðẹp nhất, hay nhất xuất hiện trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ VI TCN trở về trýớc trên lýu vực Hoàng Hà và Dýõng Tử. Theo Tý Mã Thiên viết trong Sử ký thì ban ðầu có tới 3000 bài, Khổng tử san ðịnh ðã bỏ ði 9 phần 10, chỉ giữ lại có 311 bài. Ðấy là tác phẩm vãn học cổ ðiển có ảnh hýởng sâu rộng ðến tâm hồn và trí tuệ phýõng Ðông, quan trọng ðến mức Khổng tử nói bất học thi vô dĩ ngôn! (Không học Thi biết gì mà nói). Thời nhà Tần nó cũng bị ðốt nhýng sau ðó ðýợc khôi phục và xếp vào Ngũ kinh.

Hàng nghìn nãm nay, kinh Thi mặc nhiên ðýợc coi nhý sản phẩm ðặc hữu của Hán tộc, không có ai nghi ngờ hay bàn cãi. Vì vậy, ba chục nãm trýớc, khi học giả Lýõng Kim Ðịnh cho rằng Kinh Thi là quyển kinh ðiển của Việt tộc (1) ðã gây nên sự phản ứng của không ít ngýời. Dễ hiểu thôi, thay ðổi một thói quen từng hằn vào cân não hàng nghìn nãm ðâu phải là việc một sớm một chiều!

Ðiều dễ nhận ra là kinh Thi ðã bị Hán nho rối Tống nho ðánh tráo một cách trõ trẽn: Những sáng tác dân gian sinh ra nõi ruộng lúa nýõng dâu bị biến thành sản phẩm cung ðình, một thứ vãn chýõng xu phụ chuyên ca tụng ông vua này ông vua khác cùng bà hậu phi nào ðó! Chính ở ðây, tầng lớp Hán nho ðã ãn cắp tác quyền của dân gian trao cho výõng triều. Ðiều này dễ thấy. Còn cách ðánh tráo, ãn cắp tác quyền khác tinh vi hõn thì khó nhận ra. Khó về học thuật và càng khó hõn trong tâm lý: ðứng trýớc nền vãn hóa khổng lồ của ngýời láng giềng phýõng bắc, chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé ði, ðến mức chỉ còn là cậu học trò ngu ngõ trýớc ông thầy vĩ ðại! Tâm lý ấy khiến chúng ta hèn ði, không dám nghĩ ðến cái ðiều bị coi là hoang týởng thậm chí phạm thýợng: kinh Thi là quyển kinh ðiển của Việt tộc!



Ðể phân ðịnh ðiều này, ta phải xét từ cội nguồn: Tìm về lịch sử hình thành kinh Thi.

Vào thập niên 70 của thế kỷ trýớc tồn tại 2 giả thuyết về cội nguồn dân tộc Việt. Một cho rằng, tổ tiên ngýời Việt từ cao nguyên Thiên Sõn di cý vào ðất Trung Hoa sau ðó bị ngýời Hán chèn ép nên tràn xuống Việt Nam tiêu diệt ngýời bản ðịa, lập ra nýớc Vãn Lang. Giả thuyết thứ hai cho rằng tổ tiên ngýời Việt ðã từ Mã Lai ði lên.

Ngày nay, với những thành tựu mới nhất của di truyền học, lần ðầu tiên chúng ta có bản viết chính xác về tiền sử Ðông Á: Ngýời hiện ðại Homo Sapiens ðã từ châu Phi lên Trung Ðông rồi từ ðây theo bờ biển Nam Á ðến Việt Nam khoảng 60-70000 nãm trýớc. Dừng lại ðây trong khoảng 10.000 nãm, hai ðại chủng Mongoloid và Australoid hoà huyết tạo ra những chủng lai. Những chủng ngýời này sinh sôi nảy nở lan khắp lục ðịa, hải ðảo Ðông Nam Á rồi sang châu Úc. Khoảng 40.000 nãm trýớc, khi bãng hà tan, ngýời từ Ðông Nam Á ði lên phía bắc, chiếm lĩnh lục ðịa Trung Hoa rồi sau ðó výợt qua eo Bering tới châu Mỹ.

Cho ðến thiên niên kỷ thứ IV TCN, ngýời Ðông Nam Á mà sau này sử sách gọi là Bách Việt sống khắp duyên hải Ðông Á với nhân số chiếm khoảng 54% nhân loại. Trong ðó ngýời Lạc Việt có khoảng 15-20% và giữ vai trò lãnh ðạo về xã hội và ngôn ngữ. Ngýời Bách Việt Ðông Nam Á kiến tạo nền vãn minh nông nghiệp tiến bộ nhất thế giới: Nghề trồng lúa phát triển với giống lúa ðýợc tuyển chọn tốt, biết cày bằng trâu bò, ðắp bờ giữ nýớc. Nghề chãn nuôi gia súc trở thành nghề sản xuất chính, biết nuôi tằm dệt lụa. Nghề ðúc ðồng ra ðời. Khoa thiên vãn quan sát týợng trời týợng ðất dự báo thời tiết ở trình ðộ cao. Kiến thức âm dýõng ngũ hành, dịch số ðýợc tích luỹ. Từ kết nút ðể ghi nhớ ðã có chữ Khoa ðẩu. Là cộng ðồng nông nghiệp nên sinh hoạt vãn hoá phát triển với ca dao, dân ca, ðồng dao, nhạc múa, trái gái luyến ái tự nhiên theo tục dã hợp…

Cũng trong khoảng thời gian trên, có phần chắc là muộn hõn, một số nhóm ngýời Mongoloid từ Ðông Nam Á ði lên miền ðồng cỏ phía Tây Bắc Trung Hoa, sinh sống bằng du mục, tách biệt với khối dân cý còn lại.

Khoảng 2600 nãm TCN, những bộ lạc du mục thiểu số này výợt Hoàng Hà chiếm ðất của dân Bách Việt nông nghiệp, lập ra thời ðại Hoàng Ðế. (2)

Tuy chiến thắng về quân sự nhýng do số ngýời ít và vãn hoá kém phát triển nên kẻ chiến thắng bị ðồng hoá cả về di truyền cả về vãn hoá. Ngýời Mongoloid vốn có nýớc da sáng hõn ngýời Australod lại sống ở phía bắc từ lâu nên nýớc da càng trắng hõn. Vì vậy kẻ thống trị gọi ngýời bản ðịa là lê dân – dân ðen - ðể phân biệt.

Vào ðất Bách Việt, ngýời Hán Mông Cổ choáng ngợp trýớc số dân ðông ðúc và kinh tế sung túc nên lập tức bỏ nghề du mục, chuyển sang làm quan, làm công nghiệp, nhà buôn - những công việc ðặc quyền của kẻ thống trị.

Không lâu sau, chỉ một vài trãm nãm, toàn bộ ngýời Hán Mông Cổ xuống Trung Nguyên bị hoà huyết với dân ðen bản ðịa thành chủng ngýời mới, khoa học gọi là Mongoloid phýõng Nam hay nhóm loại hình Ðông Nam Á. Trong quá trình hoà huyết thì vãn hoá cũng hoà ðồng: Trýớc hết là tiếng nói. Lớp con lai dùng trộn trạo từ vựng của bố của mẹ. Với thời gian, hai hệ tiếng nói bổ sung cho nhau, hoà vào nhau tạo nên tiếng nói chung phong phú của lớp dân mới. Tuy nhiên, tiếng nói của một vùng, một quốc gia bao giờ cũng theo cách nói của trung tâm, của thủ ðô. Ngýời Hán Mông tập trung ở ðô thị nên trong khi học thêm từ vựng Việt thì họ cố giữ cách nói - vãn phạm truyền thống Hán. Dần dần toàn bộ dân cý chuyển sang dùng cách nói thống nhất nhý các ðô thị, kết quả là trong giao tiếp cùng nói theo cách của ngýời Hán. Ðồng thời trong quá trình chung sống, các phong tục tập quán của hai tộc ngýời ban ðầu cũng hoà vào nhau.

Ngýời Hán Mông Cổ bỏ vật tổ truyền thống của mình là con cọp trắng ðể chuyển sang thờ vật tổ của dân bách Việt là con cá sấu ðýợc thần hoá thành con rồng. Ngýời Hán Mông Cổ cũng nhận những ông tổ xa xýa của ngýời Việt là Toại Nhân, Phục Hy, Thần Nông làm tổ của mình (3) Ðiều này không có gì sai trái mà hợp lý vì do hoà huyết nên về huyết thống, những thế hệ ngýời Hán từ sau Hoàng Ðế nhý Ðế Cốc, Ðế Chí ðều là con cháu của Thần Nông. Họ có toàn quyền nhận tổ tiên cũng nhý vãn hoá nông nghiệp làm của mình, bình ðẳng với những ngýời Bách Việt mới thuộc chủng Mongoloid phýõng Nam.

Từ lịch sử ðó, chúng ta thử tìm hiểu hoàn cảnh ra ðời của kinh Thi.

Từ thời vua Vũ nhà Hạ (2205-1783 TCN), các nýớc chý hầu dâng cống vật cho thiên tử thì trong phýõng vật, có cả những câu ca của dân quê nõi thôn dã. Thiên tử xem những câu ca ấy ðể hiểu thuần phong mỹ tục trong thiên hạ, ðể ðánh giá sự cai trị của vua chý hầu. Cái lễ cống tồn tại dài dài mãi sau này nhýng việc cống những câu ca nõi thôn cùng xóm vắng chỉ tồn tại ðến thời nhà Chu (1134-247 TCN).

Nhýng thử hỏi thiên hạ Trung Hoa thời Xuân Thu là ai? Lúc này ðã 2000 nãm qua ði từ trận Trác Lộc Hoàng Ðế chiến Si Výu. Trong cýõng thổ nhà Chu rộng khoảng 115.000 km2 với 15 tiểu quốc, hai chủng tộc chính ban ðầu là Hán Mông Cổ và Bách Việt ðã hoà huyết thành chủng mới Mongoloid phýõng Nam. Cùng với máu huyết, giữa ngýời Việt và ngýời Hán cũng có sự hoà ðồng về vãn hoá. Trong cộng ðồng Hán tộc mới này, lực lýợng ðông ðảo nhất là lê dân, là dân ðen tức những ngýời gốc Tam Miêu. Chính do số ðông áp ðảo, chính xuất phát từ nền vãn hoá cao hõn nên những ngýời gốc Bách Việt giữ vai trò chủ ðạo trong nền vãn hoá.

Ðặc ðiểm nổi bật của dân Miêu Việt là sống hồn nhiên vui vẻ, ýa ca múa, khá thoải mái trong chuyện luyến ái gái trai. Kinh Thý ghi nhận, khi vì bất bình mà ngýời Miêu Việt nổi dậy, dẹp không ðýợc, vua Thuấn phải sai ông Quỳ dùng ca múa phủ dụ mới yên. Từ kinh nghiệm trên, các ông vua hiền thời cổ ở Trung Quốc ðã phần nào dựa vào những lời ca cất lên nõi thôn cùng xóm vắng mà biết nguyện vọng của dân ðể kịp thời ðiều chỉnh chính sách của mình. Chính những lời ca dân dã ấy ðýợc thu thập lýu giữ trong tàng thý của nhà vua. Và từ những thý tịch trong cung vua nhà Chu, Khổng tử (551- 479 TCN) ðã ðem ra san ðịnh thành kinh Thi.

Những nguyên nhân trên ðã tạo nên tinh thần nông nghiệp Việt tộc bàng bạc trong kinh Thi ngay từ bài ðầu tiên và quan trọng nhất: Quan thý.

Quan quan thý cýu
Tại hà tri châu
Yểu ðiệu thục nữ
Quân tử hảo cầu.


Bài ca là hình ảnh một bãi nổi trên sông với những loài chim nýớc cặp ðôi cùng ngýời trai ngýời gái tình tự phản ánh cuộc sống hồn nhiên của dân cý nông nghiệp miền sông nýớc. Hảo cầu là từ ða nghĩa. Tản Ðà dịch là tốt ðôi vợ chồng nhýng theo Kim Ðịnh, một bản Latinh lại dịch là giao cấu (copulary). Dịch nhý vậy mới phản ánh ðúng cái thần câu ca: quan hệ tính giao tự nhiên nhý vậy chỉ có ở vãn hóa phồn thực của Viêm Việt nông nghiệp. Dịch nhý Tản Ðà là dịch theo quan ðiểm thanh giáo mà Hán nho rồi Tống nho áp ðặt ðể xuyên tạc kinh Thi.

Một bài khác cũng mang cái phong vị trữ tình nhý vậy, bài Hán Quảng:

Trên bờ sông Hán ai õi,
Có cô con gái khó ai mõ màng
Mênh mông sông Hán sông Giang
Lặn sang chẳng ðýợc, bè sang khó lòng.


Sông Hán là chi lýu của sông Dýõng Tử, miền ðất châu Kinh, châu Dýõng, châu Hoài... ðịa bàn cý trú lâu ðời của ngýời Bách Việt, một bằng chứng cho thấy ngýời Việt là chủ nhân những câu ca trên. Một bài khác Thảo trùng: ngýời con gái lên núi hái rau, nhìn thấy châu chấu theo nhau bay nhảy liền mong týởng ðến chồng trở về: Diệc ký kiến chỉ, diệc ký cấu chỉ, ngã tâm ðắc di.

Tản Ðà dịch: bao giờ cho thấy mặt chàng,
Cho ta vui vẻ nở nang tấm lòng.


Dịch vậy là quá khéo, bởi chữ cấu có nghĩa là giao hoan. Nở nang tấm lòng vừa có nghĩa vui mừng lại có nghĩa thai nghén sinh nở!

Bài Dã hữu tử huân (con nai chết trên ðồng) có câu:

Có cô con gái xuân tình,
Cậu giai tốt ðẹp dỗ dành muốn ve


 
Phần ðầu của kinh Thi xuất hiện từ thời Ðông Chu (770-221 BC)
Nguồn: blueprint-magazine.de

Cũng là bằng chứng của lối sống phồn thực Viêm Việt. Cuộc sống phồn thực luyến ái tự nhiên là ðặc ðiểm của vãn hóa Việt tộc. Ta thấy ðiều này trong sinh hoạt hội mùa xuân: ðến hội xuân, tất cả trai gái làng này ðến hát ðối với trai gái làng bên cạnh (là hai bộ lạc). Trai chýa vợ gái chýa chồng xem mặt nhau rồi chọn lựa trong lúc hát hò. Tan ðám hát, họ chia nhau từng ðôi, tặng nhau kỷ vật rồi dẫn nhau vào những lùm cây bãi cỏ giao hoan, gọi là dã hợp. Không ai chê bai ngãn cản việc này. Những ðứa trẻ sinh ra trong cuộc hôn phối tự nhiên ấy là ðiềm may. Chỉ khi các thánh hiền phýõng Bắc xuất hiện mới coi là xýớng ca vô loại, chê là dâm bôn, ra sức cấm ðoán rồi vỗ ngực ca ngợi công việc ấy của mình là cải hóa phong tục của man di! Nếu trong cuộc ðời thực, Hán nho, Tống nho tiếp tay cho výõng triều phong kiến xóa bỏ vãn hóa Việt tộc thì trên phýõng diện chữ nghĩa, họ cũng một mặt ãn cắp tác quyền những dân ca và ca dao Việt trao cho vua chúa, mặt khác chú giải Thi theo hýớng có lợi cho výõng triều, cổ xúy chủ nghĩa thanh giáo. Kim Ðịnh phát hiện ra mýu ðồ này nhýng có lẽ ông ðã quá lời khi nói : "Có thể xẩy ra những cuộc tráo trộn do chính Viêm tộc làm ra: nó ở tại ðem vào những bài ca của dân gian một ít lời ðể lái một bài thõ phýõng Nam ra vẻ của phýõng Bắc, hoặc ðể nguyên cả một bài hay một chuỗi bài nhý Châu Nam, Thiệu Nam mà ðặt vào vùng núi Kỳ ở Thiểm Tây ðể cho ngýời phýõng Bắc dễ chấp nhận." (VLTN 135) Có lẽ không phải vậy. Ngýời dân quê hồn hậu không nghĩ rằng những câu ca nõi ðồng nội của mình sẽ thành kinh ðiển nên phải tự sửa mình ði cho vừa khẩu vị kẻ xâm chiếm thống trị. Họ chỉ tự nhiên nhi nhiên hát lên lời hát của lòng mình mà vì nó hay nên výõng triều không thể bỏ phải lýợm lặt ðem về. Nhýng rồi việc biên tập, nhuận sắc, chú giải diễn ra, nội dung nhiều bài thay ðổi ðồng thời tác quyền bị chuyển cho ngýời khác. Việc làm này của Hán nho là có ý thức. Tuy nhiên, cái việc vụng trộm ấy cũng không hoàn toàn vô tang mà ðã ðể lại dấu vết. Không những không thể xóa hết tinh thần Viêm Việt bàng bạc trong khắp tập kinh mà ở nhiều bài còn lộ rõ dấu vết trong cách ðặt câu, trong cú pháp. Ta biết, so với tiếng Việt, cú pháp chữ Hán nói ngýợc: Việt nói trong lòng là trung tâm thì Hán nói tâm trung. Nhýng trong kinh Thi, có hiện týợng rất lạ là nhiều câu vẫn giữ cấu trúc ngữ pháp Việt:

Túc túc thỏ ta, thi vu trung lâm
(Thỏ ta: Lýới thỏ mà cãng giữa rừng.)

Ðúng ra giữa rừng viết theo cú pháp chữ Hán phải là lâm trung mà ở ðây lại là trung lâm. Hay

Hýớc lãng tiếu ngạo, trung tâm thị niệu
(Chung phong: Cũng là bỡn cợt mà thôi,
chỉ thêm ðau ruột cho ngýời xót thýõng).

Có thể kể ra nhiều nữa:

- Hồ vi hồ trung lộ (Thức vi: trong sýõng)

- Trung tâm rạng rạng (Nhị tử thừa chu: trong lòng áy náy)

- Trung tâm hữu vi (Cốc phong: trong lòng bãn khoãn)

- Di vu trung cốc (Cát ðàm: trong hang)

- Trung tâm dao dao (thử ly: trong lòng nao nao)

- Tại bỉ trung hà (Bách châu: giữa dòng sông)

- Trung cấu chi ngôn (Týờng hữu từ: lời nói trong buồng kín )

Những "hòn sạn" chữ nghĩa kia nói lên ðiều gì? Phải chãng là sự vô tình? Phải chãng là những ngýời biên tập, san ðịnh, chú giải vì "dốt" nên không thấy cái "sai" ấy? Mấy nghìn nãm nay chýa ai giải thích ðiều này. Trong bài Dẫn nhập in ở ðầu cuốn kinh Thi, ông Trần Vãn Chánh nhận xét: "Trong kinh Thi, chữ "trung" (ở trong, ở giữa) thýờng ðặt sau danh từ, thay vì ngýợc lại, so với vãn ngôn các ðời Hán, Ðýờng... về sau". (4) Ông cho rằng ðó là một trong những nguyên tắc, những mô hình cấu trúc cần nhận biết khi ðọc Thi. Ðiều này ðã hẳn nhýng nó cũng gợi lên thắc mắc: vì sao lại có hiện týợng khác thýờng ðó? Và vì sao qua hàng nghìn nãm phấn ðấu xa ðồng quỹ, thý ðồng vãn, qua biết bao lần nhuận sắc, chú giải, những ðại nho của muôn ðời không sửa chữa, không lýợm ði những "hạt sạn"? Ðúng là chữ nghĩa thời kinh Thi chýa ổn ðịnh và có khác thời Hán thời Ðýờng. Nhýng thử hỏi, nguyên nhân của sự không ổn ðịnh ấy là gì? Theo thiển ý, ở chính trong lịch sử hình thành ngôn ngữ Trung Hoa. Ngôn ngữ thời kinh Thi nằm trên ðýờng chuyển hóa từ cách nói của ngýời Việt sang cách nói của ngýời Hán. Cách nói của ngýời Hán cuối cùng ðã thắng nhýng trong ca dao, dân ca vẫn tồn tại cách nói Việt phản ánh tý duy Việt. Khi ca dao dân ca của ngýời Việt ðýợc ðýa vào kinh ðiển, ngýời san ðịnh tuy ðã nhuận sắc sửa ðổi nhýng không thể sửa chữa tất cả vì buộc phải tôn trọng vần ðiệu của thõ. Trong 2700 bài thõ bị loại bỏ, ai biết có bao nhiêu bài của Việt tộc? Những bài còn lại là những bài không thể bỏ. Những cấu trúc ngữ pháp không bình thýờng trong các bài ðó cũng là không thể sửa ðổi! Cái không thể sửa ðổi ðã trở thành những "hòn sạn" trong ngôn ngữ của Thi. Nhýng chính những "hòn sạn" týởng nhý ngẫu nhiên này lại là những hóa thạch ngôn ngữ chứng minh về sự ðóng góp của tiếng Việt vào kinh Thi, vào ngôn ngữ Trung Hoa! Không chỉ trong Thi, cách nói Việt này cũng ðể lại dấu ấn trong một số tên gọi: Nữ Oa, Thần Nông, Ðế Nghiêu, Ðế Thuấn, Ðế Chí rồi Ðế Minh, Ðế Lai... Cách nói ðó không thể phủ nhận ðýợc là cách nói Việt. Có lẽ cũng do những nguyên nhân lịch sử bất khả kháng mà ngýời ta không thể sửa thành Nông Thần, Nghiêu ðế... theo cách nói của ngýời Hán!

Nói nhý ông Kim Ðịnh Kinh thi là quyển kinh ðiển của Việt tộc e rằng quá lời. Bởi lẽ không hiểu những bài bị loại bỏ ra sao, còn cãn cứ vào những bài hiện có, ta thấy trong ðó nhiều bài mang ðặc tính chung của con ngýời, cái chất uy-manh chả của riêng ai, thật khó tách bạch. Trong ðó bên cạnh những bài ðậm sắc thái Việt lại có những bài mang tố chất Hán tộc nhý bài Thạc nhân:

Ngýời ðâu dong dỏng nhý ai,
Trong mặc áo gấm phủ ngoài áo lýõng.
Ấy ngýời con gái họ Khýõng,
Em ông thái tử cýới sang vua Vệ hầu.
Còn nhý bề giýợng là ðâu?
Có Ðàm công với Hình hầu hai vua.


Từ phục sức ðến nhân thân cho thấy ðó là ngýời ðàn bà quý tộc. Nhân vật này không phải ðối týợng của vãn chýõng dân gian. Nhiều khả nãng ðây là sản phẩm của nhà thõ cung ðình nào ðó mýợn phong cách dân gian làm thõ phục vụ výõng quyền. Không phải trong tầng lớp výõng giả không có ngýời Việt nhýng ngýời ðàn bà này ðích thực là ngýời Hán:

Tay ai nhý cái cỏ gianh non,
Da nhý mỡ ðọng, cổ nhý con nhậy dài,
Hạt bầu thời nhý thể rãng ai,
Ðầu trãn mà lại mày ngài thêm xinh...


Tay, da, ðầu có thể là cái ðẹp chung của ngýời Hán ngýời Việt nhýng rõ ràng, cái rãng: hạt bầu nhý thể... cũng nhý ðầu trãn (Tản Ðà giảng con trãn nhý con ve mà bé) là vẻ ðẹp theo chuẩn mực thẩm mỹ Hán tộc. Thời ấy, vẻ ðẹp của ngýời Việt là nhuộm rãng ðen, xãm mình. Trong Sở từ, ðau vì thân phận dòng Việt của mình, Khuất Nguyên than: rãng ðen mình trổ dọc ngang!

Nhýng ðiều thú vị là, ngay ở ðây cũng hiển lộ yếu tố vãn hoá Việt: mày ngài! Trồng dâu nuôi tằm là bản nghệ của dân nông nghiệp phýõng Nam. Do chãm chút con tằm từ ãn một ãn hai ðến ra né, chọn giống, cho ngài ðẻ… mà ngýời nuôi tằm nhận ra vẻ ðẹp kỳ diệu của cặp râu con ngài. Sự so sánh tuyệt vời nảy sinh: râu con ngài ðýợc ví với lông mày con gái. Thành ngữ mày ngài ra ðời! Ðấy là sản phẩm của vãn hoá nông nghiệp Bách Việt.

Khi ðýa nghề tằm tang từ Vãn hoá Hoà Bình lên Trung Nguyên, ngýời Việt cũng ðýa luôn thành ngữ mày ngài lên quê hýõng mới. Thành ngữ này, nhý những từ vựng khác, nhập tịch ngôn ngữ Trung Hoa rồi một cách vô thức phát lộ trong câu ca dao mang nhiều sắc thái Hoa tộc nhất. Ðiều này là ví dụ tuyệt vời chứng tỏ sự ðóng góp của vãn hoá Bách Việt vào vãn hoá Trung Hoa.

Nhý vậy, có lẽ sẽ công bằng hõn khi nói rằng, kinh Thi là ðứa con lai giữa hai nền vãn hóa Hán và Việt mà trong ðó phần hồn phần cốt là vãn hóa của Bách Việt nông nghiệp.

Sài Gòn, 6/2006

Copyright @ DCVonline 2006

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét