Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2011

Dấu ấn văn hóa Việt trong Kinh thi

Hà Văn Thùy

Kinh Thi là tuyển tập những bài dân ca và ca dao ðẹp nhất, hay nhất xuất hiện trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ VI TCN trở về trýớc trên lýu vực Hoàng Hà và Dýõng Tử. Theo Tý Mã Thiên viết trong Sử ký thì ban ðầu có tới 3000 bài, Khổng tử san ðịnh ðã bỏ ði 9 phần 10, chỉ giữ lại có 311 bài. Ðấy là tác phẩm vãn học cổ ðiển có ảnh hýởng sâu rộng ðến tâm hồn và trí tuệ phýõng Ðông, quan trọng ðến mức Khổng tử nói bất học thi vô dĩ ngôn! (Không học Thi biết gì mà nói). Thời nhà Tần nó cũng bị ðốt nhýng sau ðó ðýợc khôi phục và xếp vào Ngũ kinh.

Hàng nghìn nãm nay, kinh Thi mặc nhiên ðýợc coi nhý sản phẩm ðặc hữu của Hán tộc, không có ai nghi ngờ hay bàn cãi. Vì vậy, ba chục nãm trýớc, khi học giả Lýõng Kim Ðịnh cho rằng Kinh Thi là quyển kinh ðiển của Việt tộc (1) ðã gây nên sự phản ứng của không ít ngýời. Dễ hiểu thôi, thay ðổi một thói quen từng hằn vào cân não hàng nghìn nãm ðâu phải là việc một sớm một chiều!

Ðiều dễ nhận ra là kinh Thi ðã bị Hán nho rối Tống nho ðánh tráo một cách trõ trẽn: Những sáng tác dân gian sinh ra nõi ruộng lúa nýõng dâu bị biến thành sản phẩm cung ðình, một thứ vãn chýõng xu phụ chuyên ca tụng ông vua này ông vua khác cùng bà hậu phi nào ðó! Chính ở ðây, tầng lớp Hán nho ðã ãn cắp tác quyền của dân gian trao cho výõng triều. Ðiều này dễ thấy. Còn cách ðánh tráo, ãn cắp tác quyền khác tinh vi hõn thì khó nhận ra. Khó về học thuật và càng khó hõn trong tâm lý: ðứng trýớc nền vãn hóa khổng lồ của ngýời láng giềng phýõng bắc, chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé ði, ðến mức chỉ còn là cậu học trò ngu ngõ trýớc ông thầy vĩ ðại! Tâm lý ấy khiến chúng ta hèn ði, không dám nghĩ ðến cái ðiều bị coi là hoang týởng thậm chí phạm thýợng: kinh Thi là quyển kinh ðiển của Việt tộc!

Lịch sử Việt Nam khởi sự từ gần 3000 năm trước công nguyên đã được xác minh qua tác phẩm: Cội nguồn Việt tộc của Phạm Trần Anh

Đã từ lâu tôi thường thắc mắc về một chi tiết trong cổ sử của Việt Nam về giai đoạn các vua Hùng dựng nước. Theo truyền thuyết Việt tộc là hậu duệ của Viêm Đế Thần Nông, cháu ba đời của Viêm Đế là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi. Đế Minh đi xuống phương Nam tuần tra, đến vùng Ngũ Lĩnh, nằm vế phương Nam nước Trung Hoa, kết hôn cùng tiên nữ, sinh ra Lộc Tục, là người có thánh đức. Đế Minh muốn truyền ngôi vua cho, nhưng Lôc Tục lại nhường cho anh, nên Đế Minh để cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (tức là nước Trung Hoa, phía Bắc sông Hoàng hà). Cho con thứ là Lộc Tục làm vua phương Nam. Lúc đó là vào năm Nhâm Tuất (2879TCN). Lộc Tục xưng đế hiệu là Kinh Dương Vương, lấy họ là Hồng Bàng và đặt tên nước là Xích Qũy. Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm kế nghiệp cha lên làm vua xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ. Sinh được trăm trứng và trăm trứng đó nở ra trăm người con trai. Đây là tổ của bách Việt. Một hôm Lạc Long Quân bảo nàng Âu Cơ rằng ta vốn là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó. Nên sau đó hai người chia tay nhau mỗi người dẫn theo 50 người con. Cha dẫn 50 con xuống phía biển, mẹ dẫn 50 con về núi. Lạc Long Quân phong cho người con trưởng (không rõ tên húy) lên nối ngôi, xưng là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang v..v.. Hùng Vương truyền được 18 đời, tất cả đều lấy hiệu là Hùng Vương, cho đến năm Qúy Mão (258TCN) thì nước Văn Lang của vua Hùng bị  vua nước Thục la Thục Phán chiếm được. Thục Phán lên ngôi xưng la An Dương Vương và đổi quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê và xây Loa Thành  theo hình trôn ốc. Tính từ năm 2879TCN đến năm 258TCN cả thẩy là 2622 năm. Chi tiết này không những riêng cá nhân tôi thắc mắc vì tính từ Kinh Dương Vương đến vua Hùng thứ 18 có 20 đời vua mà thời gian trị vì những hơn 2600 năm thì thật là một điều khó tin. Các sử gia từ Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ và gần đây Trần Trọng Kim, Phạm Văn Sơn và mới nhất là sử gia Trần Gia Phụng. Tất cả đều không ai tin các chi tiết về thời gian trị vì của 20 đời vua vào thời Hồng Bàng là đúng. Thậm chí nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn với kiến thức về sử Việt Nam khá giới hạn, trong một video do Thúy Nga Paris sản xuất trước đây đã dám tuyên bố rằng thời Hồng Bàng “chắc” chỉ chừng 800 năm mà thôi.

Về nguồn


« Cây có gốc mới xanh cành tươi ngọn.
Nước có nguồn mới biển cả sông sâu. »

(ca dao)
Con người ta sinh ra ở đời đều có cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Sống mà không biết nguồn gốc lịch sử dân tộc, không biết tổ tiên mình là ai và mình từ đâu đến, thì sẽ không gìn giữ được cái gia sản tinh thần quý báu của cha ông đã để lại. Tìm về với Tổ Tiên, với văn hoá, lịch sử dân tộc là để bồi dưỡng và làm bừng cháy lên trong ta lòng tự hào dân tộc, tức là phục hưng, phục hoạt đức tin vào giá trị nguồn gốc của mình. Cũng vậy, khi chúng ta biết đem những tiến bộ của thời đại ngày nay bổ túc cho những thiếu xót ngày xưa, hầu để làm nổi bật lên những nét đặc thù của truyền thống, văn hóa, dân tộc là đã biết bảo vệ giá trị nguồn gốc của mình.


Lược về huyền sử Việt, mỗi quốc gia trên thế giới đều có huyền thoại lịch sử dựng nước và vật biểu tượng riêng cho dân tộc mình. Dân Pháp chọn "Gà trống" làm biểu tượng cho giống Gaulois, người Đức chọn chim ưng làm biểu tượng cho sức mạnh, người Hán chọn con "hổ" sau đổi thành "Rồng",…nhưng tất cả chỉ là "Đơn Nguyên", riêng dân tộc Việt chọn Lưỡng Nguyên "Tiên Rồng" làm hèm (totem) cho nòi giống. Rồng biểu tượng cho sự to lớn, lại luôn biến hóa và đầy năng lực phấn đấu. Tiên biểu tượng cho tinh thần cao thượng, sáng suốt và trường thọ. Một sự khác biệt với các dân tộc khác. Rồng Tiên hòa hợp nêu cao hai đặc tính về sự tương sinh, tương quan, âm dương hỗ trợ, sự hợp nhất giữa tinh thần với thể chất, giữa tình và lý. Một nét đặc thù của dân tộc Việt Nam. Người Hán lấy Thần Nông làm huyền thoại dựng nước, nhưng khi nói về Thần Nông là nói về Nông Nghiệp, Văn Minh Nông Nghiệp trồng lúa nước bắt nguồn từ Bách Việt, mà Hán Tộc lại bắt nguồn từ Văn Minh Du Mục. Điều này còn cho thấy, dân Hán chỉ biết lấy của người khác làm của mình. Khi không có một huyền thoại lịch sử dựng nước riêng cho dân tộc mình vậy thử hỏi xem, Trung Quốc có phải là một dân tộc thuần nhất không? hay Trung Quốc chỉ là một « Tạp Chủng Quốc » vây mượn tứ phiá, cuối cùng thì cũng chẳng biết mình là ai! Cũng vậy, khi chọn vật biểu tượng riêng cho dân tộc mình, người Hán đã chọn "hổ", rồi sau đó đổi thành "Rồng" (thấy người khác có gì hay là "mượn" xài liền!). Hổ biểu tượng cho sự dũng mãnh, Rồng biểu tượng cho sức mạnh vũ bão, cho trí dũng, cho quyền lực. Nhưng quyền lực, sức mạnh, trí dũng không được hướng dẫn bởi một tinh thần cao thượng, thanh tao, trong sáng, hài hòa, thì chỉ biết đi xâm lăng, đàn áp và chiếm đóng kẻ khác mà thôi! Thật ra, ngay cả chính người Tàu cũng không rõ nguồn gốc dân tộc của mình, chỉ cần hỏi một người Tàu nào đó, thì sẽ biết họ từ đâu đến, đến từ vùng nào, Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Mãn Châu, Hoa Nam hay Hán? Nói tóm lại, Tàu không phải là một dân tộc thuần nhất!

Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2011

Trận thế chiến III đang tới gần

Trong tác phẩm vừa ấn hành nhan đề là “Tương lai ba nước Anh-Mỹ-Nga trong Sấm Kinh Thánh”, tôi đã trình bày rằng nhờ tìm ra được một chìa khoá huyền bí, tôi đã mở được cửa kho Sấm Ký Job, một sách mà xưa nay chưa hề có ai nghĩ là một Sách Tiên Tri nói về Cộng Sản. Đem hàng ngàn câu sấm trong sách Job nhập chung vào các sách tiên tri có sẵn, chúng ta có trọn bộ hơn một trăm bài sấm về Cộng Sản, có bài được viết ra từ hơn 3 ngàn năm trước: Cộng Sản ra đời, CS bành trướng tràn lan khắp mặt đất và bá chủ thế giới rồi CS tan rã, tan rã đến độ không còn một tên CS nào sống trên mặt đất.
       Từ trong hàng trăm bài sấm về Cộng Sản đó, tôi đã rút ra được mấy đề tài chính của Sấm Kinh Thánh như sau:
* Cuộc Đại Trừng Phạt của Thiên Chúa thời thế mạt: Chúa kể tội dân Tây Phương là sống xa hoa dâm đãng và đổ máu kẻ vô tội tràn trề (giết thai nhi hàng triệu mỗi năm). Chúa kể tội của dân Mỹ là bỏ Đạo Chúa để trở thành một dân tộc vô thần và cũng đổ máu thai nhi tràn trề. Về phần nước Anh thì tội vô cùng nặng nề của Vua nước này là đã cướp đoạt Giáo Hội của Chúa để làm thành Giáo Hội của mình gọi là Anh Giáo.
     Sau khi kể tội của Tây Phương như thế, Thiên Chúa phán rằng Chúa sẽ trừng phạt đích đáng bằng một trận đòn đánh bằng một chiếc Roi Sắt. Và nước Nga Cộng Sản sẽ được Chúa dùng làm chiếc Roi Sắt đó.